Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh

Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh

Thứ Hai, 25/08/2025 - 06:15

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu trở thành thách thức sống còn của nhân loại, tăng trưởng xanh đã không còn là một lựa chọn, mà là con đường tất yếu để các quốc gia duy trì sức cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững. 

Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ tại COP26 (tháng 11/2021), về đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để hiện thực hóa mục tiêu này, bên cạnh vai trò định hướng, kiến tạo của Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân cần được xác định là lực lượng trung tâm. 

Nghị quyết số 68 - NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường là những trụ cột trong mô hình phát triển mới. Không những là bước tiến trong tư duy, chính sách này còn mở ra cơ hội để khu vực tư nhân tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình chuyển đổi xanh. 

Có thể nói, phát triển xanh là xu thế toàn cầu, cũng là con đường để Việt Nam hướng tới tăng trưởng hai con số một cách bền vững. Vì vậy, việc nhận diện đúng vai trò, cơ hội và thách thức của khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình này, cũng như đề xuất giải pháp tháo gỡ rào cản về thể chế, vốn, công nghệ và nhân lực rất có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn hiện nay.

Trên phạm vi toàn cầu, khái niệm tăng trưởng xanh đã trở thành định hướng chủ đạo của nhiều nền kinh tế. Các quốc gia phát triển đồng loạt đưa ra chiến lược giảm phát thải, thúc đẩy năng lượng tái tạo và xây dựng hệ thống pháp lý cho kinh tế tuần hoàn. Đặc biệt, Liên minh châu Âu triển khai Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD) với cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), buộc doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này phải chứng minh nỗ lực giảm phát thải trong sản xuất. Cùng với đó, chuẩn mực báo cáo bền vững toàn cầu như IFRS S1/S2 đã có hiệu lực từ đầu năm 2024, và đang dần được nhiều quốc gia đưa vào bắt buộc thông qua khung pháp lý quốc gia. Chỉ thị CSRD cũng đã áp dụng bắt buộc trong EU từ năm 2024 và đối với báo cáo tài chính từ năm 2025 trở đi, tùy theo quy mô doanh nghiệp.

Theo xu hướng này, đầu tư toàn cầu vào năng lượng sạch và công nghệ giảm phát thải carbon tiếp tục tăng mạnh. Báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho thấy, năm 2023, tổng vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo đã vượt 1.700 tỷ USD, cao hơn đáng kể so với đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch. Song song, các quỹ đầu tư quốc tế ngày càng ưu tiên doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí ESG như một thước đo năng lực cạnh tranh dài hạn.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đồng thời đối diện với áp lực và cơ hội. Áp lực chủ yếu xuất phát từ yêu cầu cắt giảm cường độ carbon trong sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của những thị trường trọng điểm như Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Ngược lại, cơ hội đến từ khả năng tiếp cận ngày càng lớn các dòng vốn xanh quốc tế, cùng với lợi thế của một quốc gia đi sau có điều kiện tiếp nhận trực tiếp công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và định hình mô hình kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn khởi đầu.

Điều này cho thấy, tăng trưởng xanh không còn dừng ở khái niệm lý thuyết, mà đã trở thành xu hướng thực tiễn, định hình lại cục diện thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam phải chủ động tham gia và trở thành lực lượng nòng cốt trong chuyển đổi xanh, để nền kinh tế không bị tụt hậu, mà ngược lại, có thể vươn lên đón đầu chu kỳ phát triển mới.

Thực tế, khu vực kinh tế tư nhân hiện nay đóng góp trên 50% GDP, chiếm hơn 80% lực lượng lao động xã hội và giữ vị trí ngày càng quan trọng trong bảo đảm an ninh và an sinh xã hội. Như Nghị quyết 68 đã khẳng định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững…”. Đồng thời, Nghị quyết cũng đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030, khu vực kinh tế tư nhân sẽ đóng góp 55 - 58% GDP, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10 - 12%/năm, và hình thành đội ngũ doanh nghiệp dân tộc có đủ năng lực cạnh tranh, vươn ra khu vực và toàn cầu.

Khu vực kinh tế tư nhân còn là “mạch máu” thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn. Các sáng kiến về tái chế, sản xuất sạch hơn, logistics ngược hay khu công nghiệp sinh thái phần lớn xuất phát từ chính nhu cầu tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự năng động và linh hoạt giúp doanh nghiệp nhanh chóng áp dụng mô hình kinh doanh tuần hoàn, từ đó lan tỏa thói quen phát triển bền vững ra toàn nền kinh tế.

Đồng thời, khu vực tư nhân có ưu thế trong việc huy động đa dạng nguồn vốn cho chuyển đổi xanh. Ngoài tín dụng trong nước, họ còn tiếp cận được dòng vốn quốc tế từ Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), trái phiếu xanh, tín dụng ưu đãi, thậm chí thử nghiệm các hình thức sáng tạo như gọi vốn cộng đồng, quỹ đầu tư mạo hiểm cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp công nghệ cao, định hướng xanh. Đây là những kênh mà khu vực công khó có thể khai thác hiệu quả bằng.

Trong hoạt động sản xuất - dịch vụ, doanh nghiệp tư nhân cũng là tác nhân then chốt giúp Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn xanh của thị trường xuất khẩu. Những yêu cầu khắt khe như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU hay nhãn môi trường ở nhiều quốc gia buộc doanh nghiệp phải cải tiến quy trình, giảm phát thải. Với khả năng đổi mới nhanh, khu vực tư nhân có lợi thế hơn trong việc thích ứng, duy trì năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường quốc tế.

Mặc dù đa số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, nhưng chính đặc điểm này lại tạo sức lan tỏa rộng. Khi hàng trăm nghìn doanh nghiệp cùng áp dụng các giải pháp xanh cơ bản như tiết kiệm năng lượng, xử lý nước thải hay phân loại rác tại nguồn, tác động cộng hưởng sẽ rất đáng kể đối với mục tiêu phát triển bền vững. Nhìn từ góc độ này, kinh tế tư nhân không chỉ là người thụ hưởng chính sách, mà còn trở thành lực lượng trực tiếp hiện thực hóa mô hình phát triển xanh, tuần hoàn và bền vững, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Đặc biệt, vai trò của kinh tế tư nhân có thể được nhìn nhận rõ nét qua sáu trụ cột tăng trưởng xanh, phản ánh những lĩnh vực trọng tâm mà doanh nghiệp có thể tham gia và tạo ra tác động dài hạn:

(1) Năng lượng tái tạo và giảm phát thải - Doanh nghiệp tư nhân giữ vai trò chủ lực trong phát triển điện mặt trời, điện gió, hydrogen xanh, lưu trữ năng lượng và tham gia thị trường carbon.

(2) Kinh tế tuần hoàn và giảm chất thải - Triển khai các mô hình khu công nghiệp sinh thái, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), logistics tuần hoàn và công nghệ tái chế.

(3) Tài chính xanh và cơ chế hỗ trợ - Huy động vốn thông qua tín dụng xanh, trái phiếu bền vững, quỹ bảo lãnh; đồng thời hưởng ưu đãi thuế và lãi suất đối với dự án xanh.

(4) Công nghệ và đổi mới sáng tạo - Ứng dụng vật liệu ít phát thải, nông nghiệp thông minh, mô hình sản xuất - tiêu dùng xanh và cơ chế sandbox cho công nghệ mới.

(5) Giao thông và hạ tầng xanh - Phát triển xe điện, hạ tầng sạc, xử lý chất thải đô thị, hệ thống logistics phát thải thấp và năng lượng phân tán, (là các nguồn điện sạch quy mô nhỏ như điện mặt trời mái nhà, pin lưu trữ hay microgrid, được lắp đặt ngay tại khu dân cư, nhà máy để tiêu thụ tại chỗ, không phụ thuộc hoàn toàn vào lưới điện tập trung).

(6) Quản trị bền vững và tiêu chuẩn xanh - Thúc đẩy áp dụng ESG trong doanh nghiệp, triển khai hệ thống MRV số hóa để minh bạch phát thải, đồng thời áp dụng các nhãn xanh và tiêu chuẩn quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.

Như vậy, việc phát huy tối đa tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong tăng trưởng xanh không những mang lại lợi ích kinh tế, mà còn là bước tiến vững chắc hướng tới một xã hội công bằng, thịnh vượng và hài hòa với thiên nhiên. Đây chính là giai đoạn thuận lợi để Việt Nam kết hợp sức mạnh của Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và cộng đồng nhằm xây dựng một nền kinh tế xanh - sạch - bền vững.

Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh- Ảnh 1.
Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh- Ảnh 2.
Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh- Ảnh 3.

Trong tiến trình chuyển đổi xanh, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định rõ nét. 

Trong tiến trình hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, hai xu hướng nổi bật là chuyển dịch năng lượng và định giá carbon, đang trở thành những động lực quan trọng, vừa tạo sức ép thay đổi, vừa mở ra cơ hội phát triển mới cho khu vực kinh tế tư nhân. Chính trong không gian ấy, doanh nghiệp Việt Nam có thể khẳng định vai trò tiên phong, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế và góp phần kiến tạo mô hình tăng trưởng xanh bền vững.

Trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã có bước tiến ấn tượng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Từ chỗ gần như vắng bóng trên bản đồ năng lượng sạch khu vực, Việt Nam đã vươn lên nhóm dẫn đầu Đông Nam Á với tổng công suất lũy kế điện mặt trời đạt khoảng 18,6 GW vào năm 2023; tổng công suất gió và mặt trời đã vượt 21 GW. Đáng chú ý, phần lớn các dự án này do khu vực tư nhân đầu tư và vận hành, cho thấy năng lực huy động vốn, quản lý dự án và ứng dụng công nghệ ngày càng mạnh mẽ của doanh nghiệp Việt Nam.

Sự bùng nổ năng lượng sạch mang lại nhiều lợi ích chiến lược. Một mặt, giúp đất nước giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng. Mặt khác, đây là cơ hội trực tiếp cho doanh nghiệp tư nhân. Theo ước tính của Ember, năm 2024 cơ cấu phát điện của Việt Nam có sự dịch chuyển rõ rệt: khoảng 44% sản lượng đến từ các nguồn sạch như thủy điện, gió, mặt trời, sinh khối. Tuy nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm 56%, nhưng tỷ trọng năng lượng sạch đã tăng đáng kể so với giai đoạn trước. Việc gia tăng tỷ trọng nguồn điện sạch là tiền đề để doanh nghiệp giảm cường độ carbon trong sản xuất. Qua đó, đáp ứng yêu cầu về biên giới carbon mà các thị trường xuất khẩu chủ lực đang áp dụng. Đặc biệt, với việc Liên minh châu Âu triển khai Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), những doanh nghiệp thâm dụng năng lượng như thép, xi măng, dệt may, da giày chỉ có thể duy trì thị phần xuất khẩu nếu tận dụng được nguồn điện tái tạo trong nước.

Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh- Ảnh 4.

Việt Nam đã có bước tiến ấn tượng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo

Không dừng ở đó, chuyển dịch năng lượng còn mở ra thị trường đầu tư khổng lồ cho doanh nghiệp tư nhân. Theo World Bank, Việt Nam cần huy động khoảng 135 tỷ USD cho quá trình chuyển dịch năng lượng giai đoạn 2021 - 2030, tức trung bình 13,5 tỷ USD mỗi năm, trong đó 75% dự kiến đến từ khu vực tư nhân. Đây là không gian để doanh nghiệp tư nhân tham gia ở nhiều khâu: Từ phát triển dự án, cung ứng thiết bị, dịch vụ kỹ thuật đến các giải pháp quản lý năng lượng thông minh. Sự ra đời của cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) cũng tạo điều kiện để doanh nghiệp sản xuất ký hợp đồng dài hạn với nhà phát triển năng lượng tái tạo, vừa ổn định chi phí, vừa bảo đảm tuân thủ tiêu chuẩn ESG.

Song song với chuyển dịch năng lượng, cơ chế định giá carbon đang trở thành công cụ quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng xanh. Việt Nam đã khởi động lộ trình thiết lập thị trường carbon trong nước từ năm 2025, tiến tới vận hành toàn diện vào 2028 - 2029, tập trung vào các ngành phát thải lớn như điện, thép, xi măng. Trong giai đoạn đầu, phần lớn hạn ngạch phát thải được phân bổ miễn phí nhằm giảm áp lực cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, cơ chế này sẽ tạo khuôn khổ pháp lý ban đầu để doanh nghiệp làm quen với việc tính đúng, tính đủ chi phí carbon, từ đó thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng giải pháp sản xuất sạch hơn.

Ở giai đoạn sau, phạm vi ngành nghề được mở rộng, tỷ lệ miễn phí giảm dần, cơ chế đấu giá và giao dịch tín chỉ carbon sẽ trở thành phổ biến, đồng bộ với thông lệ quốc tế. Đây chính là nền tảng để doanh nghiệp Việt Nam tuân thủ quy định trong nước và chứng minh năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Thị trường carbon, nhìn ở khía cạnh khác, còn là cơ hội kinh doanh mới. Doanh nghiệp đầu tư sớm vào công nghệ tiết kiệm năng lượng, tái chế phụ phẩm hay trồng rừng hấp thụ carbon có thể tạo ra tín chỉ carbon dư để bán lại trên thị trường. Với sự năng động và linh hoạt, đây chính là lợi thế mà khu vực tư nhân có thể khai thác đầu tiên. Nếu Việt Nam xây dựng được hệ thống tín chỉ carbon minh bạch, đạt chuẩn quốc tế, doanh nghiệp trong nước hoàn toàn có thể tham gia thị trường khu vực và toàn cầu, từ đó thu hút thêm ngoại tệ và vốn đầu tư xanh.

Tất nhiên, cả chuyển dịch năng lượng và thị trường carbon đều đi kèm thách thức. Công nghệ sạch, thiết bị tiết kiệm năng lượng hay các dự án năng lượng tái tạo đều đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi đa số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là vừa và nhỏ. Việc tiếp cận tín dụng xanh còn hạn chế do thiếu tài sản bảo đảm, chưa đáp ứng tiêu chí ngân hàng. Các tổ chức tài chính trong nước cũng chưa có cơ chế đánh giá rủi ro môi trường đầy đủ.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp thiếu nhân lực am hiểu về tiêu chuẩn ESG, hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định phát thải) hay các chứng chỉ xanh quốc tế, dẫn đến khó khăn khi tiếp cận những thị trường xuất khẩu áp dụng chuẩn mực khắt khe.

Khung pháp lý và hạ tầng hỗ trợ cũng chưa đồng bộ: Thị trường điện cạnh tranh, cơ chế DPPA, quy hoạch lưới truyền tải và hệ thống tiêu chuẩn xanh thống nhất vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Đồng thời, các điều kiện nền tảng cho kinh tế tuần hoàn như phân loại rác tại nguồn, logistics ngược, hệ thống thu hồi - tái chế hay tiêu chuẩn tái chế thống nhất còn thiếu hoặc vận hành chưa hiệu quả, khiến doanh nghiệp khó triển khai mô hình trên diện rộng.

Do vậy, để khu vực kinh tế tư nhân thực sự phát huy tiềm năng trong tiến trình chuyển đổi xanh, cần sớm tháo gỡ các rào cản về vốn, công nghệ, thể chế và hạ tầng. Đây là điều kiện nền tảng giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước đảm nhận vai trò tiên phong trong tăng trưởng xanh, đồng thời đóng góp thiết thực vào việc thực hiện cam kết Net - Zero 2050 của Việt Nam.

Để khu vực kinh tế tư nhân dẫn dắt tăng trưởng xanh, chính sách cần đồng bộ, minh bạch và có khả năng thực thi cao. Trên cơ sở Nghị quyết 68-NQ/TW, có thể định hình một số hướng đi như sau:

Thứ nhất, minh bạch hóa tiếp cận đất đai cho dự án xanh. Cần sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, số hóa quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất và công khai trực tuyến quỹ đất sạch. Thủ tục giao, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng đất phải rút gọn, minh bạch và ổn định để doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn.

Thứ hai, phát triển tài chính xanh và cơ chế bảo lãnh tín dụng. Cần thiết lập Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn đầu tư công nghệ sạch. Đồng thời, khuyến khích phát triển các sản phẩm tài chính như trái phiếu xanh, quỹ đầu tư bền vững, tín dụng vi mô xanh.

Tại Hàn Quốc, Tổng Công ty Công nghệ Tài chính KOTEC bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ xanh, giúp họ vay vốn thuận lợi hơn, đồng thời hỗ trợ nghiên cứu và phát triển.

Thứ ba, phát triển thị trường điện cạnh tranh và cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) để doanh nghiệp mua điện tái tạo dài hạn. Đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến - chế tạo và xuất khẩu (dệt may, da giày, điện tử, gỗ, thủy sản), có nhu cầu cấp thiết về nguồn điện tái tạo ổn định và dài hạn để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường quốc tế như cơ chế CBAM của EU. Các lĩnh vực hạ tầng - dịch vụ như trung tâm dữ liệu, logistics, cảng biển, cũng như bất động sản xanh (khu công nghiệp, đô thị sinh thái) ngày càng đòi hỏi sử dụng năng lượng sạch nhằm thu hút khách thuê FDI và nhà đầu tư toàn cầu.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mô hình hợp đồng mua bán điện dài hạn (Power Purchase Agreement - PPA) đã trở thành công cụ chủ đạo để doanh nghiệp giảm phát thải phạm vi 2 (Scope 2 Emissions). Ở Singapore và Ấn Độ, PPA dài hạn được coi là công cụ then chốt để thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm tính bền vững của thị trường năng lượng sạch. Tại Mỹ, cơ chế DPPA đã trở thành công cụ chính để các tập đoàn công nghệ như Google, Microsoft thực hiện lộ trình 100% năng lượng tái tạo.

Thứ tư, chuẩn hóa tiêu chuẩn và chứng nhận xanh. Việt Nam cần ban hành bộ tiêu chuẩn thống nhất về công trình xanh, khu đô thị xanh và sản xuất xanh, gắn với hệ thống chứng nhận quốc tế. Đây là cơ sở để sản phẩm xanh được định giá đúng và tăng sức cạnh tranh. Tại Hàn Quốc, hệ thống chứng nhận “Green Building Certification” đã bắt buộc áp dụng, góp phần nâng cao giá trị bất động sản và khuyến khích áp dụng thiết kế tiết kiệm năng lượng ngay từ giai đoạn đầu.

Thứ năm, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và khu công nghiệp sinh thái. Cần có chính sách ưu đãi cho các dự án tái chế, logistics ngược, cũng như khuyến khích phát triển khu công nghiệp sinh thái và khu dân cư tuần hoàn. Đây là nền tảng quan trọng để giảm chất thải và tiết kiệm tài nguyên.

Khu công nghiệp sinh thái (eco-industrial park) được coi là hạt nhân của mô hình kinh tế tuần hoàn, nơi các doanh nghiệp cùng chia sẻ hạ tầng xử lý chất thải, nước thải, năng lượng và tận dụng phụ phẩm của nhau như nguyên liệu đầu vào. Cách làm này vừa giúp giảm chi phí tuân thủ môi trường, vừa tối ưu hiệu quả sử dụng tài nguyên, hạn chế phát thải và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Kinh nghiệm từ Khu công nghiệp sinh thái Kalundborg (Đan Mạch) cho thấy, khi vận hành hiệu quả, một khu công nghiệp sinh thái có thể tiết kiệm hàng triệu USD mỗi năm nhờ giảm chi phí năng lượng và xử lý chất thải, đồng thời tạo ra giá trị gia tăng mới từ phụ phẩm tưởng chừng phải bỏ đi.

Kinh tế tư nhân - Sức sống mới của hành trình tăng trưởng xanh- Ảnh 5.

Kinh nghiệm từ Khu công nghiệp sinh thái Kalundborg (Đan Mạch) cho thấy, khi vận hành hiệu quả, một khu công nghiệp sinh thái có thể tiết kiệm hàng triệu USD mỗi năm.

Song song với đó, Việt Nam cần phát huy cơ chế Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility - EPR), gắn với việc hình thành liên minh tái chế bao bì nhựa và hệ thống thu gom - phân loại rác tại nguồn. Đây là công cụ quan trọng để bảo đảm dòng chảy vật liệu tuần hoàn, tạo đầu vào ổn định cho ngành tái chế, đồng thời giúp giảm gánh nặng cho ngân sách trong xử lý rác thải đô thị. Thực tế từ Hàn Quốc và Liên minh châu Âu cho thấy, EPR đã trở thành động lực chính để xây dựng ngành công nghiệp tái chế hiện đại, nâng cao tỷ lệ thu hồi vật liệu và giảm phát thải nhựa ra môi trường.

Thứ sáu, nâng cao năng lực quản trị ESG và minh bạch thông tin. Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cần được hỗ trợ về đào tạo báo cáo phát thải, công cụ MRV số hóa và tiếp cận chuẩn mực IFRS S1/S2.

Thứ bảy, khuyến khích hợp tác công - tư và công nghệ mới. Cần cơ chế sandbox để thử nghiệm các công nghệ mới như hydrogen xanh, lưu trữ năng lượng, tín chỉ carbon chất lượng cao. Doanh nghiệp tư nhân nên tham gia trực tiếp vào các dự án thí điểm, nhằm tạo hình mẫu nhân rộng. Singapore đã thành công khi thử nghiệm thị trường tín chỉ carbon khu vực, còn Nhật Bản cho phép doanh nghiệp tư nhân tham gia các dự án hydrogen ngay từ giai đoạn đầu, tạo nền móng cho ngành công nghiệp mới.

Để thực hiện các khuyến nghị trên một cách hiệu quả, cần có lộ trình triển khai rõ ràng theo từng giai đoạn. Năm 2025 - 2026, nhiệm vụ trọng tâm là rà soát hiện trạng phát thải, xây dựng chiến lược Net - Zero ở cấp ngành và địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn xanh. Đây cũng là giai đoạn thích hợp để triển khai các dự án tiết kiệm năng lượng “no/low-cost” như thay thế thiết bị lạc hậu, tái chế nguyên liệu, tối ưu vận hành.

Giai đoạn 2027 - 2030, cần tập trung mở rộng đầu tư công nghệ sạch, tham gia tích cực vào thị trường carbon, triển khai rộng rãi các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) nhằm bảo đảm nguồn năng lượng tái tạo ổn định, đồng thời chuẩn hóa hệ thống quản trị theo Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế về Bền vững số 2 - IFRS S2.

Sau năm 2030, lộ trình hướng tới nâng cấp chuỗi giá trị tuần hoàn, coi logistics ngược, tái chế và tái sử dụng là chuẩn mực, đồng thời tích hợp chuyển đổi số cho hệ thống MRV phát thải. Ở giai đoạn này, doanh nghiệp tư nhân cần đổi mới mạnh mẽ danh mục sản phẩm xanh phục vụ xuất khẩu, đáp ứng các tiêu chuẩn carbon quốc tế để duy trì lợi thế cạnh tranh lâu dài.

***

Kinh tế tư nhân đã, đang và sẽ tiếp tục là lực lượng nòng cốt trong tiến trình hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của Việt Nam. Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, và được chứng minh qua những đóng góp thực tiễn trong nhiều lĩnh vực.

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt Net - Zero vào năm 2050, kinh tế tư nhân cần được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược chuyển đổi xanh. Khu vực này có lợi thế về tính linh hoạt, khả năng đổi mới sáng tạo và tiềm lực huy động vốn đa dạng. Để phát huy vai trò đó, cần khơi thông đồng bộ các nguồn lực về vốn, thị trường và công nghệ, tạo nền tảng cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực xanh - sạch - bền vững.

Bên cạnh đó, để kinh tế tư nhân thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt quá trình chuyển dịch xanh, Nhà nước và xã hội phải tạo lập môi trường pháp lý ổn định, minh bạch và dễ dự đoán, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích vượt chuẩn đối với những doanh nghiệp tiên phong trong áp dụng công nghệ sạch và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hợp tác công - tư cũng cần được thúc đẩy để triển khai các dự án hạ tầng xanh quy mô lớn, trong đó kinh tế tư nhân vừa là nhà đầu tư, vừa là nhà vận hành.

Khi những điều kiện này được bảo đảm, kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ có đủ nền tảng để nâng cao năng suất, củng cố năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường toàn cầu, đồng thời đóng góp tích cực vào thực thi Nghị quyết 68 cũng như mục tiêu Net - Zero 2050./.

Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.

Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.

Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.

Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.

Chuyên đề Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình.

Trân trọng giới thiệu tới độc giả!


Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top