Luật Quy hoạch: “Ngọn hải đăng”, tầm nhìn và những kỳ vọng mới

Luật Quy hoạch: “Ngọn hải đăng”, tầm nhìn và những kỳ vọng mới

Dương Minh Anh
Dương Minh Anh duongminhanh070902@gmail.com
Thứ Ba, 23/09/2025 - 06:00

Việc sửa đổi Luật Quy hoạch không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu cấp bách của thực tiễn, được Bộ Chính trị, Quốc hội hết sức coi trọng. Dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) đã được nghiên cứu, xây dựng và trình thảo luận tại Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đồng thời tiếp tục lấy ý kiến sâu rộng từ phía các bộ, ngành, địa phương để hoàn thiện trên tinh thần rà soát, sửa đổi một cách căn cơ, toàn diện, "khó đâu tháo đó, tắc đâu thông đó". Dự kiến, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua dự án luật quan trọng, được các địa phương doanh nghiệp đặc biệt mong chờ này vào Kỳ họp thứ 10 tới (tháng 10/2025). 

Trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ mới đây, đối với dự án Luật Quy hoạch, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu, cần đánh giá việc bãi bỏ, điều chỉnh một số quy hoạch ngành quốc gia, quan tâm xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch để bảo đảm dự án đầu tư không bị mất nhiều thời gian; đồng thời có thể vẫn tiếp tục thực hiện theo các quy hoạch đang hoạt động ổn định, không bị ảnh hưởng bởi việc tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, tránh lãng phí.

Đặc biệt, Tổng Bí thư nhấn mạnh, xây dựng Luật Quy hoạch phải bảo đảm được tầm nhìn phát triển của quốc gia; xây dựng được hạ tầng mang tính tổng thể, dài hạn và giải quyết nhiệm vụ phát triển hạ tầng để dẫn dắt sự phát triển chung; tiếp tục phân cấp, phân quyền, xác định rõ thẩm quyền trong công tác quy hoạch, gắn với đơn giản hóa quy trình, thủ tục trong hoạt động quy hoạch, đảm bảo đồng bộ việc phân cấp, phân quyền theo tinh thần "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; tiếp tục nghiên cứu quy định bổ sung để xử lý các bất cập về hệ thống quy hoạch, mối quan hệ giữa các loại quy hoạch và đánh giá sự phù hợp của dự án đối với quy hoạch.

Các chuyên gia nhìn nhận, việc sửa đổi Luật Quy hoạch lần này không đơn thuần chỉ để khắc phục, xử lý ngay những vướng mắc kỹ thuật đã và đang gây tắc nghẽn nguồn lực trong một thời gian dài mà còn thể hiện quyết tâm chính trị ở mức cao nhất nhằm kiến tạo một hành lang pháp lý mới về quy hoạch minh bạch, hiệu quả, đủ sức trở thành "ngọn hải đăng" dẫn dắt sự phát triển trong nhiều thập kỷ tới. 

Trước năm 2019, hệ thống quy hoạch ở Việt Nam vận hành trong tình trạng chồng chéo, phân mảnh, với khoảng 20.000 loại quy hoạch khác nhau. Nhiều quy hoạch sản phẩm, dịch vụ bị đánh giá là bất hợp lý, gây lãng phí nguồn lực, cản trở quyền tự do kinh doanh và kìm hãm sự phát triển của đất nước. Tình trạng xin - cho cũng trở nên phổ biến khi không ít doanh nghiệp phải xin phép theo những bản quy hoạch thiếu cơ sở, thậm chí tạo ra rào cản cạnh tranh và làm giảm sức hấp dẫn của nền kinh tế.

Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tình trạng "mạnh ai nấy làm" ấy không thể kéo dài. Tháng 11/2017, Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch, có hiệu lực từ 1/1/2019, đánh dấu một bước ngoặt lớn, đặt mục tiêu xóa bỏ sự phân tán, thống nhất quy hoạch trên phạm vi cả nước. Luật đã làm thay đổi căn bản hệ thống quy hoạch quốc gia: Số lượng quy hoạch giảm 97%, chỉ còn 111 quy hoạch, bao gồm: 1 quy hoạch tổng thể quốc gia; 1 quy hoạch không gian biển; 1 quy hoạch sử dụng đất; 39 quy hoạch ngành cấp quốc gia; 6 quy hoạch vùng và 63 quy hoạch tỉnh (cũ).

Hàng chục quy hoạch ngành được tích hợp thành một quy hoạch tỉnh duy nhất. Đặc biệt, hơn 3.000 quy hoạch sản phẩm, dịch vụ cùng hàng ngàn điều kiện kinh doanh và "giấy phép con" bị bãi bỏ. Luật cũng quy định rõ việc nghiêm cấm lập hoặc phê duyệt quy hoạch cho sản phẩm, dịch vụ cụ thể - một thay đổi căn bản, trả lại quyền tự do sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân.

Luật Quy hoạch: “Ngọn hải đăng”, tầm nhìn và những kỳ vọng mới- Ảnh 1.

TS.KTS. Trương Văn Quảng, Phó Tổng thư ký Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam.

TS.KTS. Trương Văn Quảng, Phó Tổng thư ký Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam nhấn mạnh, sự ra đời của Luật Quy hoạch 2017 đã khắc phục tình trạng cát cứ, manh mún, đặt mục tiêu "một luật bao trùm", thống nhất các quy hoạch trên cùng một không gian lãnh thổ. Nhờ đó, việc khai thác tiềm năng được tối ưu hơn, tạo động lực phát triển kinh tế vùng và giảm thiểu lãng phí nguồn lực.

Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng mô hình quy hoạch tích hợp, gắn kết từ cấp quốc gia đến vùng, liên vùng và từng tỉnh. "Thực tế trước đây, hệ thống pháp luật chưa hề có quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch không gian biển hay quy hoạch không phận... Bởi vậy, Luật Quy hoạch 2017 mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu sự đột phá trong tư duy phát triển và quản trị không gian lãnh thổ", ông nói. 

Các chuyên gia đánh giá, Luật Quy hoạch 2017 là nền tảng pháp lý quan trọng, mở đường cho tư duy phát triển mới, đặt ra khung khổ để Việt Nam định hình không gian phát triển trong dài hạn, vừa bảo đảm tầm nhìn chiến lược, vừa thúc đẩy sự năng động, sáng tạo ở cấp địa phương. Đây là công cụ không thể thiếu để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững và đồng bộ trên phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, quá trình triển khai, Luật Quy hoạch 2017 đã bộc lộ không ít điểm nghẽn. TS.KTS. Trương Văn Quảng phân tích, cũng vì mô hình quy hoạch tích hợp vốn lần đầu áp dụng tại Việt Nam nên đã khiến cả cơ quan quản lý lẫn đơn vị tư vấn lúng túng. Nhiều địa phương chỉ dừng lại ở việc "cộng gộp" các bản quy hoạch ngành vào một báo cáo chung, thay vì phân tích mối quan hệ tương tác giữa các ngành.

Hệ quả là nhiều bất cập nảy sinh. Tổng dân số cộng dồn trong 63 quy hoạch tỉnh vượt xa dân số quốc gia; chỉ tiêu đất công nghiệp và tỷ lệ đô thị hóa ở nhiều địa phương vượt khung cho phép. Chẳng hạn, Bắc Giang (cũ) là tỉnh đầu tiên được phê duyệt quy hoạch, nhưng chỉ sau thời gian ngắn đã phải xin điều chỉnh vì quy hoạch vừa quá tổng thể, vừa quá chi tiết, khó triển khai. Hay tại Hà Nội, sự tồn tại song song giữa Quy hoạch Thủ đô và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng tiếp tục gây chồng chéo.

Một vướng mắc khác nằm ở quy hoạch sử dụng đất. Nhiều tỉnh mở rộng khu công nghiệp vượt hạn mức quy hoạch quốc gia, buộc phải "chuyển thuật ngữ" để hợp thức hóa. Điều này dẫn đến sự bất nhất giữa cấp địa phương và trung ương, làm giảm tính khả thi của kế hoạch phát triển.

"Quy hoạch tích hợp đòi hỏi phải có một "nhạc trưởng" đủ tầm để điều phối, nhưng vai trò này hiện chưa được xác định rõ. Nếu không có sự điều phối thống nhất, nguy cơ lặp lại tình trạng cát cứ, hình thức sẽ rất lớn", TS.KTS. Trương Văn Quảng nhấn mạnh. 

Nhận thấy rõ những bất cập, Quốc hội đã tiến hành điều chỉnh Luật lần đầu vào năm 2023. Song, dường như những "nút thắt" này vẫn chưa được tháo gỡ triệt để.

Thêm nữa, thách thức mới cũng xuất hiện trong bối cảnh sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính sau ngày 1/7/2025, cả nước giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh. Điều này đồng nghĩa toàn bộ quy hoạch tỉnh đã phê duyệt sẽ phải điều chỉnh. Ví dụ, TP.HCM khi hợp nhất với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ phải xây dựng lại một quy hoạch hoàn toàn mới; tương tự, Hải Phòng khi hợp nhất với Hải Dương cũng buộc phải tích hợp lại. Quá trình này kéo theo chi phí lớn và nguy cơ thiếu tính khả thi.

Sự khác biệt về trình độ phát triển và năng lực quản lý giữa các địa phương cũng làm gia tăng các khó khăn. Đơn cử như, khi hợp nhất Lào Cai và Yên Bái, trong khi Lào Cai đi trước về chuyển đổi số, Yên Bái vẫn còn nhiều hạn chế, đặt ra bài toán cân đối nguồn lực trong một quy hoạch chung.

Đặt trong bối cảnh các tỉnh, thành phố vận hành theo mô hình chính quyền hai cấp sau khi sáp nhập đơn vị hành chính, yêu cầu sửa đổi luật càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nếu khung pháp lý không kịp hoàn thiện, hàng loạt dự án đầu tư có nguy cơ đình trệ. Tình thế này đòi hỏi một tư duy lập pháp đột phá, dám thay đổi mạnh mẽ và triệt để hơn.

"Việc sửa Luật Quy hoạch 2017 là yêu cầu khách quan, không thể trì hoãn. Đây không chỉ là bước đi cần thiết để thích ứng với mô hình chính quyền hai cấp, mà còn nhằm khắc phục hàng loạt bất cập đã nảy sinh trong thực tiễn", TS.KTS. Trương Văn Quảng nhấn mạnh. 

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Trúc Sơn (đoàn Bến Tre) nêu quan điểm, nếu không sửa luật kịp thời, nguy cơ lặp lại tình trạng bị động như giai đoạn 2021 - 2030 là rất lớn, khi phải mất đến 3,5 năm chỉ để chuẩn bị quy hoạch.

"Khi sáp nhập hai hay ba tỉnh, các quy hoạch cũ sẽ không còn phù hợp, thứ tự ưu tiên chương trình, dự án cũng thay đổi. Nếu không điều chỉnh kịp thời, chúng ta sẽ bị trói buộc bởi chính những văn bản đã lỗi thời", đại biểu nêu rõ.

Báo cáo của Bộ Tài chính cũng chỉ ra thực trạng vướng mắc trong quá trình thực thi Luật Quy hoạch 2017. Cụ thể như:

- Luật không quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt, công bố và điều chỉnh các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành nên chưa có cơ sở pháp lý để xác định mổi quan hệ, cơ chế xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch. Một số quy hoạch có nội dung trùng lặp hoặc có thể thay thế quản lý bằng chiến lược, đề án, quy chuẩn, điều kiện đầu tư, kinh doanh; một số quy hoạch không thể triển khai thực hiện do liên quan đến điều ước quốc tế.

- Chưa có quy định thống nhất về việc lập đồng thời các quy hoạch; chưa có quy định về thứ tự phê duyệt quy hoạch để bảo đảm tính thứ bậc, thống nhất, đồng bộ của hệ thống quy hoạch.

- Trình tự, thủ tục gồm nhiều bước, làm chậm tiến độ phê duyệt quy hoạch. Phân cấp, phân quyền còn thiếu linh hoạt, chưa phù hợp với chủ trương mới của Đảng về tăng cường phân cấp, phân quyền.

- Nội dung nhiệm vụ lập quy hoạch quá chi tiết dẫn đến thiếu linh hoạt trong quá trình triển khai; còn có cách hiểu khác nhau về mức độ chi tiết của các loại quy hoạch.

- Chưa có sự đồng bộ về phạm vi, loại, cấp độ quy hoạch; thẩm quyền lập, thẩm định, phê duyệt, điều chinh quy hoạch của các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành với quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.

- Chưa có quy định chi tiết về đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch, dẫn đến chưa có cách hiểu thống nhất.

Đây là những cơ sở thực tiễn quan trọng để Dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) lần này được rà soát lại và xây dựng một cách toàn diện, tìm ra giải pháp để gỡ được tương đối các vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình thực thi Luật nhiều năm qua.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, Dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) lần này có nhiều điểm mới, mang tính chất đồng bộ và toàn diện với trọng tâm là tháo gỡ những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn vận hành. Cụ thể, Bộ Tài chính đã đề xuất tại Dự thảo Luật các nội dung chính sau:

Một là, quy hoạch ở tất cả các cấp sẽ được điều chỉnh ngay sau khi Nghị quyết về sáp nhập đơn vị hành chính có hiệu lực. Cơ chế mới đồng thời bảo đảm các quy hoạch đang triển khai vẫn tiếp tục được thực hiện cho tới khi quy hoạch điều chỉnh được ban hành, tránh khoảng trống pháp lý và gián đoạn trong quá trình phát triển.

Hai là, nguyên tắc phân cấp, phân quyền sẽ được thể hiện rõ ràng hơn. Thay vì cơ chế tập trung, mọi thay đổi nhỏ ở địa phương đều phải trình lên Chính phủ hay Quốc hội, thì nay tinh thần chủ đạo là "địa phương quyết - địa phương làm - địa phương chịu trách nhiệm". Điều này được kỳ vọng giúp tăng tính chủ động, linh hoạt và trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Ba là, nhấn mạnh lại vị trí và vai trò của từng loại quy hoạch trong hệ thống, trong đó quy hoạch tổng thể quốc gia tiếp tục được xác định là định hướng chiến lược cao nhất, có giá trị pháp lý nền tảng cho việc lập quy hoạch ở các cấp và ngành. Sự phân định rõ ràng chức năng và thứ bậc này được kỳ vọng sẽ giảm xung đột giữa các quy hoạch, đồng thời nâng cao hiệu lực chỉ đạo từ trung ương xuống địa phương.

Bốn là, để giải quyết vấn đề tích hợp vốn đang là điểm nghẽn lớn trong thực tiễn, dự thảo lần này chia tích hợp thành hai hướng: Tích hợp ngang là phối hợp các ngành trong cùng một cấp; tích hợp dọc là sự thống nhất giữa các tầng từ trung ương đến địa phương. 

Nghĩa là, những lĩnh vực kỹ thuật cao như quốc phòng, năng lượng, viễn thông… được phép có quy hoạch riêng nếu việc tích hợp không khả thi. Đây là điểm tiến bộ để dung hòa giữa tính đồng bộ và đặc thù. Cách tiếp cận này mở đường cho việc áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật cao trong một số ngành chiến lược mà không làm ảnh hưởng đến sự thống nhất chung của hệ thống quy hoạch quốc gia.

Năm là, hướng tới việc tháo gỡ triệt để những điểm nghẽn thực tế, từ thủ tục phê duyệt kéo dài đến sự chồng chéo giữa các loại quy hoạch. Mục tiêu cuối cùng là tạo điều kiện để các dự án triển khai nhanh hơn, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và hướng tới hai con số trong những năm tiếp theo.

Luật Quy hoạch: “Ngọn hải đăng”, tầm nhìn và những kỳ vọng mới- Ảnh 2.

Lần sửa đổi Luật này có nhiều điểm mới, mang tính chất đồng bộ và toàn diện với trọng tâm là tháo gỡ những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn vận hành. (Ảnh minh hoạ)

Sáu là, mở rộng hệ thống quy hoạch quốc gia từ 4 lên 5 nhóm, trong đó tách riêng quy hoạch không gian biển quốc gia thay vì gộp chung vào quy hoạch ngành. Đồng thời, khoảng 28 quy hoạch kỹ thuật, chuyên ngành cũng được bổ sung, nhằm đồng bộ hóa hệ thống và xử lý xung đột giữa các quy hoạch chuyên ngành với quy hoạch cấp quốc gia, vùng và tỉnh. Đây là bước tiến quan trọng, thể hiện tầm nhìn dài hạn khi coi biển không chỉ là không gian kinh tế, mà còn gắn với an ninh, môi trường và quốc phòng.

Bảy là, yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu quy hoạch quốc gia trên nền tảng số, liên thông với dữ liệu đất đai, giao thông, xây dựng, môi trường và các lĩnh vực khác. Điều này nhằm tăng cường tính minh bạch, hỗ trợ quá trình lập, thẩm định và giám sát quy hoạch một cách đồng bộ. Việc chuyển đổi số trong lĩnh vực quy hoạch cũng mở ra khả năng ứng dụng công nghệ dự báo, mô phỏng phát triển đô thị và kiểm soát rủi ro môi trường một cách chủ động.

Tám là, quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tổ chức lập quy hoạch trong việc lựa chọn đơn vị tư vấn, kiểm soát chất lượng đầu ra và thực hiện giám sát độc lập. Cơ chế hậu kiểm cũng được bổ sung nhằm tăng tính ràng buộc trong quá trình triển khai.

Chín là, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn khoảng 30% quy trình. Mối quan hệ giữa các loại quy hoạch - từ quốc gia, vùng, tỉnh đến chuyên ngành - sẽ được làm rõ, xử lý triệt để những mâu thuẫn giữa quy hoạch cũ và mới. Những thay đổi này hứa hẹn giảm đáng kể rủi ro pháp lý, tạo sự ổn định và minh bạch cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và người dân.

Mười là, thời gian lập quy hoạch cấp tỉnh sẽ được rút ngắn từ 30 tháng xuống còn 24 tháng. Đây là điều chỉnh nhằm khắc phục tình trạng chậm tiến độ phổ biến, vốn đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư công và hoạt động sản xuất kinh doanh tại nhiều địa phương.

Ngoài ra, để tránh chồng chéo, dự thảo cũng quy định cơ chế xử lý mâu thuẫn. Nếu các quy hoạch do nhiều cơ quan khác nhau lập thì cơ quan cấp trên sẽ quyết định quy hoạch nào cần điều chỉnh; nếu cùng một cơ quan thì chính cơ quan đó chịu trách nhiệm giải quyết. Đặc biệt, vai trò của cấp xã được nâng cao khi bắt buộc phải lấy ý kiến trong quá trình lập hoặc điều chỉnh quy hoạch, nhằm bảo đảm tính thực tiễn và khả thi.

Tuy nhiên, để sửa toàn diện Luật Quy hoạch, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội ước tính cần điều chỉnh khoảng 60 luật và hơn 1.000 văn bản dưới luật. Đây là một khối lượng công việc đồ sộ, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và quyết tâm cao độ từ cả hệ thống chính trị.

"Chưa bao giờ việc chỉ đạo lại cụ thể, rốt ráo như lần này. Từ các công trình, hạng mục đến mốc thời gian hoàn thành đều được ấn định rõ ràng. Điều đó phản ánh sự năng động và quyết liệt của Quốc hội, Chính phủ và toàn bộ bộ máy nhà nước trong việc đưa Luật đi vào cuộc sống", TS.KTS. Trương Văn Quảng bày tỏ tin tưởng.

Việc phân cấp mạnh hơn cho địa phương giúp chính quyền tỉnh, thậm chí xã, có quyền chủ động trong phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch nhỏ, gắn với đặc thù từng địa bàn. Cơ chế mới còn được thiết kế theo nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền”, qua đó thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý.
Ông Bùi Văn Doanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam

Bàn thêm về những tác động từ những điểm mới từ việc sửa luật, ông Bùi Văn Doanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam cho rằng, những đột phá mới trong tư duy lập pháp nếu được hoàn thiện sẽ tạo ra nhiều thay đổi tích cực. Việc phân cấp mạnh hơn cho địa phương giúp chính quyền tỉnh, thậm chí xã, có quyền chủ động trong phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch nhỏ, gắn với đặc thù từng địa bàn. Cơ chế mới còn được thiết kế theo nguyên tắc "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền", qua đó thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý.

Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản, thủ tục rút gọn sẽ giúp giảm chi phí, đồng thời hạn chế rủi ro nhờ mối quan hệ giữa các loại quy hoạch được làm rõ. Khi quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tỉnh và quy hoạch phân khu được thiết kế đồng bộ, nhà đầu tư và người dân sẽ có căn cứ pháp lý chắc chắn hơn. Thị trường bất động sản nhờ đó có cơ hội ổn định hơn, còn giá trị đô thị được nâng cao khi quy hoạch hạ tầng, giao thông, không gian xanh được lồng ghép hài hòa. 

Tư duy lập pháp đã rõ ràng, những điểm cần sửa cũng đã có bước tiến mới. Vấn đề đặt ra là phải sửa đổi Luật theo hướng nào để tháo gỡ điểm nghẽn, đồng thời xây dựng một hệ thống quy hoạch thực sự trở thành động lực phát triển?

TS.KTS. Trương Văn Quảng nhìn nhận, mô hình chính quyền hai cấp đồng nghĩa với việc phân quyền cho cơ sở sẽ lớn hơn nhiều so với trước, song năng lực cán bộ ở cấp phường, xã vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Khoảng cách giữa yêu cầu quản trị mới và trình độ thực tế có thể khiến việc thực thi trở nên khó khăn, thậm chí phát sinh sai phạm nếu không được giám sát chặt chẽ.

"Quá trình sửa đổi Luật Quy hoạch lần này chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn, nhưng chính điều đó càng cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Quốc hội, Chính phủ và cả hệ thống chính trị. Đây là một quyết tâm cao độ, rất quyết liệt. Khi cả bộ máy chính trị cùng vào cuộc, Luật sẽ được sửa đổi hiệu quả, bảo đảm tiến độ đặt ra", TS.KTS. Trương Văn Quảng nhấn mạnh lại. 

Song, điều quan trọng không chỉ là hoàn thành đúng thời hạn, mà còn ở chất lượng sửa đổi. Liệu Luật sau khi điều chỉnh có thật sự tháo gỡ được những điểm nghẽn từ thực tiễn, có đủ "độ chín" để giải quyết thấu đáo các vướng mắc hay không?

TS.KTS. Trương Văn Quảng lưu ý, việc chuyển tiếp giữa quy hoạch cũ và mới phải được quy định rõ ràng, tránh tranh chấp hoặc đình trệ các dự án đã được phê duyệt. Dữ liệu quy hoạch cũng cần được chuẩn hóa, công khai và số hóa, để đảm bảo minh bạch và hỗ trợ hiệu quả trong quản lý. Quan trọng hơn, Luật Quy hoạch (sửa đổi) phải được đồng bộ với các luật khác như Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị - nông thôn, nếu không sẽ lại phát sinh "điểm nghẽn" mới.

Bên cạnh đó, theo TS.KTS. Trương Văn Quảng, Luật cần khẳng định rõ vị trí, giá trị pháp lý của từng cấp quy hoạch: Quy hoạch tổng thể quốc gia giữ vai trò chiến lược cao nhất, làm cơ sở cho quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh và quy hoạch kỹ thuật. Khi phân tầng rõ ràng, xung đột, chồng chéo sẽ giảm đáng kể, biến quy hoạch trở thành "kim chỉ nam" phát triển. Tuy nhiên, thách thức lớn vẫn nằm ở năng lực triển khai. Phương pháp tích hợp chưa được đào tạo bài bản, đội ngũ tư vấn còn thiếu, nhiều lãnh đạo địa phương chưa nắm vững khái niệm "tích hợp ngang" và "tích hợp dọc", dẫn tới nguy cơ rơi vào lối mòn cộng gộp, thiếu cơ sở khoa học.

"Vấn đề thời gian cũng cần cân nhắc. Trước đây, một quy hoạch kéo dài tới 30 tháng, nay đề xuất rút xuống 24 tháng để tránh tình trạng "dồn toa", song nhiều địa phương lo ngại khó đảm bảo chất lượng khi vẫn phải trải qua nhiều vòng thẩm định.

Ngoài ra, cần nới lỏng tích hợp kỹ thuật. Quy hoạch tỉnh tập trung vào chiến lược phát triển, còn các quy hoạch chuyên ngành như đô thị, nông thôn có thể tồn tại độc lập. Đặc biệt, việc xây dựng cơ sở dữ liệu quy hoạch quốc gia trên nền tảng số được xem là bước đột phá, bởi hiện nay dữ liệu còn phân tán, thiếu liên thông, dễ sai lệch. Nếu đồng bộ hóa, chỉ cần một thao tác có thể tra cứu toàn bộ thông tin về hạ tầng, đất đai, công nghiệp, giao thông trên cả nước, phục vụ quản lý hiện đại, minh bạch hơn.

Đáng chú ý, cần giải quyết khéo léo bài toán chuyển tiếp giữa luật cũ và luật mới, tránh để người dân và doanh nghiệp rơi vào tình trạng "kẹt" pháp lý", Phó Tổng thư ký Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam đề xuất.

Luật Quy hoạch: “Ngọn hải đăng”, tầm nhìn và những kỳ vọng mới- Ảnh 3.

GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước.

Ở góc nhìn khác, GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước cho rằng, yếu tố quan trọng hàng đầu là làm rõ cơ chế quy hoạch tích hợp theo chu trình "từ trên xuống - từ dưới lên". Nghĩa là, quy hoạch cấp trên đưa ra định hướng chiến lược và các chỉ tiêu cơ bản; quy hoạch cấp dưới cụ thể hóa và có quyền đề xuất điều chỉnh; sau đó, cấp trên tổng hợp và ấn định để cấp dưới triển khai. Cách làm này giúp giải quyết mâu thuẫn, đồng thời cho phép phê duyệt đồng thời hoặc lần lượt, tránh ách tắc kéo dài.

GS.TS. Hoàng Văn Cường cũng nhấn mạnh đến vai trò của đội ngũ tư vấn quy hoạch. Để bảo đảm tầm nhìn dài hạn hàng chục, thậm chí hàng trăm năm, cần có những đơn vị tư vấn có năng lực chuyên môn sâu và tư duy chiến lược, tránh để quy hoạch bị chi phối bởi "tư duy nhiệm kỳ" của lãnh đạo đương thời.

Nhìn từ bài học quốc tế, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, không có mô hình quy hoạch tích hợp nào hoàn hảo, nhưng nhiều quốc gia đã rất thành công khi áp dụng cơ chế linh hoạt và minh bạch.

Tại Hà Lan, quy hoạch quốc gia chỉ dừng ở định hướng khung, còn địa phương có toàn quyền triển khai chi tiết. Hàn Quốc duy trì song song nhiều loại quy hoạch và khi có xung đột thì dùng cơ chế hòa giải thay vì "ép tích hợp". Singapore đi xa hơn khi toàn bộ quy hoạch được số hóa, công khai trên nền tảng bản đồ số để người dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý cùng tiếp cận, phản biện và theo dõi. Bài học rút ra là không thể tích hợp bằng mệnh lệnh hành chính, mà phải dựa trên dữ liệu, tính minh bạch và phân quyền rõ ràng.

Từ những phân tích trên, TS. Nguyễn Sĩ Dũng chỉ ra 5 giải pháp then chốt: Thiết kế lại theo mô hình phân tầng - phối hợp - phân quyền; luật hóa trở lại quy hoạch phân khu và chi tiết; cho phép tồn tại nhiều lớp quy hoạch và thiết lập cơ chế hòa giải; phân cấp mạnh mẽ cho địa phương trong điều chỉnh; và đặc biệt là đẩy mạnh số hóa, công khai dữ liệu để nâng cao tính minh bạch, hiệu quả.

"Như Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh, cơ quan quản lý chỉ cần xây dựng quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn, công bố công khai; người dân và doanh nghiệp được làm tất cả những gì luật không cấm; còn chính quyền tập trung hậu kiểm, giám sát thay vì tiền kiểm, cấp phép. Đây chính là tinh thần đột phá để Luật Quy hoạch (sửa đổi) thực sự đi vào cuộc sống", TS. Nguyễn Sĩ Dũng kết luận.

***

Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ hậu sáp nhập đơn vị hành chính, thúc đẩy thu hút dòng vốn FDI chiến lược, phát triển các dự án hạ tầng quy mô lớn và bứt tốc chuyển đổi số, không thể để quy hoạch trở thành lực cản. Các chuyên gia nhấn mạnh, sửa Luật Quy hoạch lần này không phải để "xóa đi làm lại", mà để tiếp tục nâng cấp nền tảng thể chế, khớp nối với thực tiễn phát triển và đồng hành cùng khát vọng quốc gia. Quy hoạch phải trở lại đúng bản chất là "ngọn hải đăng" dẫn đường, công cụ tổ chức không gian phát triển và động lực để đất nước bứt phá.

Với lần sửa đổi này, khi Quốc hội đang đặt quyết tâm chính trị cao độ, kỳ vọng Luật sẽ được hoàn thiện toàn diện, gỡ được những "nút thắt" còn tồn tại. Từ đó kiến tạo một "đường băng" pháp lý đủ rộng, đủ chắc để doanh nghiệp cất cánh, để nền kinh tế vươn mình. Bởi suy cho cùng, nền tảng quy hoạch hôm nay chính là "chìa khóa" mở ra quỹ đạo phát triển của tương lai - nơi khát vọng vươn mình của đất nước đang hội tụ./.


Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top