
Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị Hồ Thị Minh phát biểu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Tán thành việc Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình, các đại biểu nhấn mạnh, đây là chủ trương lớn, mang ý nghĩa chiến lược, thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu tiên phát triển khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp khoảng cách vùng miền và bảo đảm cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người dân.
Đại biểu Hồ Thị Minh (Quảng Trị) nêu rõ: Việc tích hợp 3 chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình tổng thể giai đoạn 2026 - 2035 là bước đột phá cần thiết về thể chế, tránh tình trạng phân tán nguồn lực, chồng chéo chính sách. Tuy nhiên, việc tích hợp không có nghĩa là làm mất tính đặc thù của từng lĩnh vực chính sách, nhất là chính sách dân tộc. Chính vì vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo và Chính phủ cần làm rõ vai trò chủ quản của cơ quan quản lý.
Đại biểu cho rằng, chính sách dân tộc là lĩnh vực đặc thù, được thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm kỳ qua. Chương trình mục tiêu quốc gia về dân tộc là chính sách tác động trực tiếp nhất, sâu rộng nhất đến đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Vì vậy, Bộ Dân tộc và Tôn giáo - cơ quan được giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc - phải giữ vai trò chủ trì, không thể chỉ đóng vai trò "phối hợp" như trong hồ sơ trình. "Hợp phần thứ 2 đặc thù cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số do Bộ Dân tộc và Tôn giáo hướng dẫn. Vậy khi có vướng mắc như giải ngân chậm thì trách nhiệm thuộc về ai?" đại biểu băn khoăn và kiến nghị cần ghi rõ về quyền hạn của Bộ Dân tộc và Tôn giáo trong việc chủ trì phân bổ trực tiếp nguồn vốn của hợp phần 2 thay vì chỉ phối hợp hướng dẫn.
Về nguồn lực và cách phân bổ nguồn vốn, Tờ trình của Chính phủ nêu dự kiến tổng nguồn lực huy động thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2030 là 1,23 triệu tỷ đồng; trong đó, vốn ngân sách Trung ương chỉ chiếm 8% (100 nghìn tỷ đồng), ngân sách địa phương chiếm 33% (400 nghìn tỷ đồng), huy động từ người dân và doanh nghiệp là 28%; số còn lại huy động lồng ghép từ các chương trình mục tiêu quốc gia khác, tín dụng chính sách.
Đại biểu Hồ Thị Minh phân tích, thực tế, các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đặt biệt là các địa phương khu vực miền Trung, Tây Nguyên còn khó khăn, hầu hết là nhận trợ cấp từ cân đối ngân sách Trung ương. Việc áp dụng chi đối ứng 33% là rất khó đối với địa phương và dễ dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản; do đó Chính phủ cần cân đối lại. Để Nghị quyết thật sự có tính khả thi và nhân văn, đại biểu đề nghị xem xét lại cơ cấu nguồn vốn, đồng thời miễn áp dụng đối ứng cho các xã nghèo và vùng thường xuyên chịu thiên tai như các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hoá Mai Văn Hải phát biểu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Cũng quan tâm về vấn đề bố trí vốn thực hiện Chương trình, đại biểu Mai Văn Hải (Thanh Hóa) chỉ rõ, trong điều kiện sát nhập tỉnh, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, quy mô tỉnh, các xã đều lớn hơn nhiều so với trước đây, nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và việc hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới sau sắp xếp là rất lớn. Nhiều tỉnh miền núi, xã miền núi còn gặp khó khăn về ngân sách, trong khi đa số các xã nguồn đầu tư chủ yếu là tiền cấp quyền sử dụng đất dành cho đầu tư xây dựng nông thôn mới. Hiện nay, nguồn vốn này cũng không được như giai đoạn trước đây, địa phương chỉ được hưởng 80 đến 85% tiền sử dụng đất nên sẽ càng khó khăn vốn đối ứng cho thực hiện chương trình.
Vì vậy, để đảm bảo tính khả thi của nguồn vốn, đại biểu đề nghị cân đối ngân sách trung ương và có các giải pháp để huy động các nguồn vốn hợp pháp khác như nguồn vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã, vốn của người dân trong thực hiện Chương trình; trong đó cần tăng vốn ngân sách Trung ương cho hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phân tích về cơ cấu nguồn vốn và cơ chế phân bổ thực hiện Chương trình, đại biểu Hà Sỹ Huân (Thái Nguyên) cho rằng, vốn ngân sách Trung ương chỉ chiếm 100 nghìn tỷ đồng, ngân sách địa phương là 400 nghìn tỷ đồng thể hiện tỉ trọng ngân sách Trung ương chưa tương xứng với vai trò chủ đạo. Trong khi đó, tỉ lệ đối ứng của địa phương khá cao, khiến gánh nặng tài chính dồn chủ yếu ở địa phương, tạo áp lực lớn cho các tỉnh khó khăn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi có tỉ lệ hộ nghèo cao. Do đó, đại biểu đề nghị rà soát, làm rõ khả năng cân đối ngân sách Trung ương, xem xét điều chỉnh cơ cấu vốn để đảm bảo ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo cả về tỉ trọng và tính dẫn dắt trong thực hiện Chương trình. Theo đó, nâng tỉ trọng ngân sách Trung ương trong tổng ngân sách Nhà nước lên mức hợp lý để đảm bảo Chương trình thực hiện hiệu quả.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên Hà Sỹ Huân phát biểu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Bên cạnh những lo ngại về cơ cấu vốn, các đại biểu cũng quan tâm tới nguyên tắc phân bổ nguồn vốn Trung ương, nhằm đảm bảo nguồn lực được sử dụng đúng trọng tâm, trọng điểm, tạo đột phá cho vùng lõi nghèo.
Đại biểu Hà Sỹ Huân chỉ ra tồn tại của các nguyên tắc hiện hành còn mang tính khái quát chưa cao, chưa có tiêu chí định lượng nên khó tránh khỏi việc phân bổ nguồn vốn dàn trải, cào bằng khi tổ chức thực hiện. Đại biểu đề nghị lượng hóa, khoanh vùng đối tượng thụ hưởng để tập trung nguồn lực, đảm bảo ưu tiên cho các mục tiêu cụ thể để thực hiện nhiệm vụ quan trọng.
Đánh giá cao nguyên tắc ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số, đại biểu Đỗ Văn Yên (Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, để phù hợp thực tiễn, Ban soạn thảo cần bổ sung tiêu chí phân bổ theo "mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước". Việc gắn phân bổ vốn với hiệu quả thực thi sẽ tạo động lực mạnh mẽ đối với các địa phương trong công tác điều hành, đồng thời giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải, từ đó thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả Chương trình.