Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra rất nhanh tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu và một phần châu Á, trong đó có Việt Nam. Mặc dù không nằm trong 9 khu vực, lĩnh vực được đánh giá là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng này, nhưng ngành ngân hàng Việt Nam cũng đang có những thay đổi rõ rệt từ làn sóng công nghệ mới; đặc biệt làm thay đổi kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống.
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối với sự phát triển của lĩnh vực tài chính ngân hàng. Trong bối cảnh mới, mỗi chủ thể hoạt động trong lĩnh vực này phải nhanh chóng thay đổi nhận thức, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực và chủ động tham gia.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 tạo ra những bước tiến mới trong thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ ngân hàng thông qua tương tác và giao tiếp điện tử. Vai trò của công nghệ là yếu tố quan trọng, then chốt trong định hướng phát triển ngân hàng trong cuộc Cách mạng này. Mô hình ngân hàng số hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ thông qua các thiết bị số kết nối với các phần mềm máy tính trên môi trường mạng Internet đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ thống của ngân hàng. Ngân hàng không chỉ có vai trò trong xã hội thực, mà còn phải thiết lập vai trò trong không gian số.
Những vận hội mới
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang đến cho hệ thống ngân hàng Việt Nam nhiều cơ hội lớn trong quá trình phát triển trên nhiều khía cạnh như: Mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế; nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ cao được tăng cường; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh giảm chi phí giao dịch, sản phẩm dịch vụ phát triển theo hướng hiện đại.
Việt Nam tham gia vào phần lớn các Hiệp định thương mại tự do (FTA) có quy mô lớn trên thế giới. Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ là cơ hội để ngành ngân hàng Việt Nam phát triển quan hệ đối ngoại, mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế trong điều kiện sân chơi kinh doanh bình đẳng mang tính toàn cầu. Điều này sẽ mở ra cơ hội lớn cho khu vực tài chính ngân hàng bắt kịp trình độ thế giới, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Không chỉ vậy, với công nghệ di động phát triển, các ngân hàng có thể khai thác tệp khách hàng mới, vốn là những người trước đây chưa sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng; những người ở vùng sâu, vùng xa giờ đây có thể thông qua các ứng dụng ngân hàng trên di động mà không cần tới chi nhánh vật lý, giảm chi phí đi lại, góp phần đẩy mạnh phổ cập tài chính quốc gia.
Ứng dụng công nghệ 4.0 còn giúp các ngân hàng nâng cao lợi nhuận, đảm bảo tính sẵn sàng cao cho hệ thống ngân hàng trong bối cảnh mới.
Hiện nay, lượng tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng thương mại (NHTM) trên cả nước đạt khoảng 68,7 triệu tài khoản, khoảng 70 NHTM đã cung cấp dịch vụ thanh toán qua internet và khoảng 36 NHTM cung cấp dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho 21 tổ chức không phải là ngân hàng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh toán).
Fintech góp phần làm thay đổi sâu sắc diện mạo của ngành công nghiệp tài chính ngân hàng ở Việt Nam. Theo Khảo sát toàn cảnh về Fintech của khu vực ASEAN 2018 của Ernst & Young (một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay), Việt Nam hiện có khoảng 78 công ty Fintech đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư lên tới 129 triệu USD.
Trong đó, hiện có tới 90% các khoản thanh toán đang dùng tiền mặt và các công ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán, chiếm 47% trên tổng số 78 công ty Việt Nam, đây là tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN. Các sản phẩm chủ yếu của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng như: Ví điện tử, chuyển tiền ngang cấp, dịch vụ cung cấp thông tin tài chính, cho vay ngang hàng, gọi vốn cộng đồng, tiền thuật toán Bitcoin...
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã đổi mới cách thức quản trị ngân hàng, đổi mới quan hệ khách hàng, hiện đại hóa cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản phẩm, ứng dụng dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, ứng dụng điện toán đám mây, công nghệ Fintech trong thanh toán...
… và những thách thức cần vượt qua
Đi cùng với cơ hội chính là vô vàn thách thức mà cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đặt ra đối với ngành ngân hàng Việt Nam như việc thiếu khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến các dịch vụ, phương tiện thanh toán trực tuyến, điện tử mới, hiện đại, tiền ảo, thẻ ảo, tiền điện tử…
Nếu không thay đổi hệ thống ngân hàng lõi truyền thống, các ngân hàng có thể bị tụt lại trong cuộc đua cung cấp các trải nghiệm số cho khách hàng. Hệ thống công nghệ thông tin lỗi thời với cấu trúc không linh hoạt và hoạt động nguyên khối gây cản trở việc các ngân hàng phát triển lên ngân hàng số. Trong khi đó, việc thay đổi hệ thống rất phức tạp, tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Đây là khó khăn lớn cho ngành ngân hàng khi mà ngân sách đầu tư chiến lược cho các công nghệ mới bị hạn chế, hiểu biết và tiềm năng về số hóa còn hạn hẹp.
Không chỉ gặp khó khăn ở hệ thống máy móc cũ, nhân sự có năng lực về công nghệ số hiện đại trong các ngân hàng Việt Nam còn yếu và mỏng về trình độ, thiếu những nhân sự có khả năng nắm bắt và triển khai các công nghệ số hiện đại trên thế giới.
Vấn đề về bảo mật cũng là khó khăn phải khắc phục, phải quan tâm rất nhiều khi trình độ của các tổ chức tấn công mạng, trình độ của tội phạm cũng cao hơn rất nhiều. Cùng với mức độ toàn cầu hóa cao mà cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đem lại, thì nguy cơ bị tấn công của các ngân hàng Việt Nam không còn gói gọn ở phạm vi trong nước, mà tại bất kỳ một quốc gia nào, tội phạm cũng có thể tấn công được các ngân hàng Việt Nam.
Ngân hàng hiện vẫn đang có lợi thế trong giai đoạn đầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nhưng tương lai có còn lợi thế hay không thì chưa thể nói trước. Muốn duy trì lợi thế, ngành ngân hàng phải vượt qua thách thức và đi tiên phong trong việc ứng dụng hiệu quả các thành tựu Cách mạng Công nghiệp 4.0 trong quản lý và điều hành nền kinh tế số.