Phát triển kinh tế tri thức là con đường duy nhất đến với cách mạng 4.0
Nhân dịp kỷ niệm 16 năm Ngày Khuyến học Việt Nam (02/10/2008 - 02/10/2024), Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS. Nguyễn Thị Doan, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam.
--------
Thế giới đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp. Đầu thế kỷ 21, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này được hình thành trên nền tảng cải tiến cuộc cách mạng số. Đây là bước ngoặt mới cho sự phát triển của con người. Nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tác động đến đời sống của từng con người. Trong thời kỳ này, sự phát triển chủ yếu dựa vào kinh tế tri thức. Tri thức đã trở thành một yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất. Sự phát triển dựa vào tri thức, dựa vào khoa học công nghệ là trụ cột xuyên suốt đã diễn ra ở nhiều nước phát triển và là bước đi tất yếu của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
*****
Từ năm 2000, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra dựa trên nền tảng kỹ thuật số: Mọi người trên toàn cầu kết nối, vạn vật kết nối…; con người, máy móc và sản phẩm tự kết nối, giao tiếp với nhau thông qua mạng Internet, trí tuệ nhân tạo...
Điều đó sẽ làm thay đổi mọi lĩnh vực trong đời sống một cách nhanh chóng, thậm chí thay đổi ngay chính bản thân chúng ta. Robot có trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế công việc của con người, giúp chúng ta được giải phóng khỏi những công việc nặng nhọc hàng ngày. Nhưng chúng ta sẽ làm gì để sống khi bị mất việc làm và bản thân mỗi người lại không chịu suy nghĩ để thay đổi chính mình cho thích ứng với tình hình đó. Máy móc đang cạnh tranh công việc với con người một cách khốc liệt tạo ra sự bất bình đẳng và phá vỡ thị trường lao động.
Báo cáo của tổ chức lao động Quốc tế (ILO) chỉ ra: Hơn 2/3 trong số 12 triệu lao động ngành dệt may và da giày tại Đông Nam Á (lao động giản đơn) đang bị đe dọa vì sự ứng dụng khoa học công nghệ phát triển rất nhanh. Sau 20 năm nữa, 86% số lao động của Việt Nam trong ngành này sẽ thất nghiệp. Cũng theo báo cáo này, 1/3 công việc của người tốt nghiệp Đại học trên toàn thế giới sẽ được thay bằng máy móc hoặc phần mềm.
Mức chi phí cho một Robot rẻ hơn rất nhiều chi phí cho một công nhân (tiền lương, tiền khám bệnh, thai sản, chi phí học hành...). Khi đó những người lao động cơ bắp, không có trình độ đáp ứng sẽ bị thất nghiệp và những người có năng lực, trình độ cao, nhiều sáng kiến sáng tạo sẽ có việc làm tốt, thu nhập cao và khoảng cách giàu nghèo trong xã hội sẽ bị doãng ra ngày càng lớn. Thất nghiệp, chênh lệch giàu nghèo sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế chính trị, xã hội, an ninh quốc gia. Bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến bất ổn đời sống, bất ổn về chính trị; khi đó, nguy cơ bất ổn ở mỗi quốc gia là hoàn toàn có thể trong thời kỳ cách mạng 4.0. Cạnh tranh giữa các nước trong lĩnh vực áp dụng khoa học - công nghệ đang diễn ra gay gắt để giành giật sức mạnh và thể hiện quyền lực ngày càng gia tăng.
Cuộc cách mạng 4.0 tác động mạnh mẽ đến từng con người, khi mà những thành quả 4.0 không thuộc sở hữu của riêng ai khi những đặc điểm vùng miền, tâm lý, sinh lý đặc thù sẽ không chi phối được kết quả của cuộc cách mạng số này. Phương pháp trao đổi thông tin qua kết nối mạng sẽ đặt con người vào nhiều mối nguy hiểm. Do vậy, chúng ta dù không muốn nhưng bắt buộc phải trở thành công dân toàn cầu (có đầy đủ các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, trình độ ngoại ngữ, tác phong lao động, kỷ luật lao động...). Nếu không, máy móc, công nghệ, robot… sẽ đưa chúng ta ra khỏi hệ thống.
Tất yếu khách quan là như vậy. Nhưng lịch sử đã chứng minh: Con người sẽ kiểm soát được vũ trụ, kiểm soát được tất cả những gì đang và sẽ xảy ra. Cuộc cách mạng 4.0 cũng là do tài trí của con người tạo ra, nó mới đang ở giai đoạn đầu, song hết sức lợi hại. Chúng ta cần nắm lấy cơ hội, nắm lấy những thành quả 4.0 mang lại, để bắt nó phục vụ những mục tiêu mà cách mạng Việt Nam đang đặt ra trên tất cả các lĩnh vực.
Nhưng làm cách nào để đạt được điều đó, vấn đề quả là không dễ dàng với một đất nước còn nghèo và lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới như Việt Nam.
Chúng ta đã có nhiều thành công trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, được thế giới đánh giá cao. Hiện chúng ta đã hội nhập quốc tế sâu, rộng, đã hòa vào sân chơi chung của các quốc gia trong khu vực và nhiều nước trên thế giới thông qua việc ký kết WTO và các FTA. Nhờ đó tăng trưởng kinh tế được duy trì, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn… dần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận là sự phát triển đó vẫn thiếu bền vững do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong phạm vi bài viết này, tôi muốn đề cập đến một số bất cập tác động trực tiếp tới sự phát triển bền vững của đất nước:
2.1. Chất lượng nguồn lực của chúng ta nhìn chung còn thấp
Một thời gian dài chúng ta phát triển dựa vào ưu thế nguồn nhân lực trẻ, phát triển đất nước dựa vào lao động giản đơn, chủ yếu là gia công, lắp ráp nên không đòi hỏi tri thức cao, trình độ cao, hàm lượng chất xám trong một đơn vị sản phẩm không nhiều, do đó chẳng cần học nhiều thì người lao động vẫn làm tốt công việc của mình. Hiện nay cơ cấu lao động của chúng ta còn rất lạc hậu và bất hợp lý, cụ thể:
Lao động Nông nghiệp nhìn chung chất lượng kém, lại dư thừa nhiều;
- Lao động chủ yếu là giản đơn, kỷ luật lao động yếu, chưa có tác phong lao động công nghiệp;
- Lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng bị thất nghiệp nhiều;
- Trình độ một phần không nhỏ đội ngũ lao động trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, kể cả trình độ lãnh đạo trong toàn hệ thống so với các nước còn một khoảng cách.
Đó là thách thức lớn nhất đối với chúng ta khi bước vào cuộc cách mạng số. Với trình độ về tin học, ngoại ngữ và kỹ năng làm việc cùng với cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin còn yếu như hiện nay làm cho chúng ta rất khó khăn để thành công trong hội nhập.
2.2. Kinh tế tri thức ở Việt Nam chưa phát triển đủ sức để tiếp cận kết quả của cuộc cách mạng 4.0
Hiện nay, các nước tiên tiến phát triển đất nước dựa vào vốn tri thức. Phần lớn các hoạt động kinh tế dựa trên sự hiểu biết và thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ Nano... Mọi hoạt động trong các ngành kinh tế đều dựa nhiều hơn vào việc dùng tri thức trong môi trường toàn cầu hóa. Còn các nước lạc hậu thì phát triển dựa vào khai thác tài nguyên khoáng sản và sức lao động cơ bắp, và Việt Nam chúng ta cũng có một thời gian dài như vậy. Nguồn nhân lực chất lượng thấp kết hợp với cách thức phát triển đất nước như vậy đã tạo ra sức ỳ ghê gớm cho nền kinh tế. Năng suất lao động của Việt Nam hiện nay đang ở nhóm thấp và đang đứng trước nguy cơ bị bỏ lại phía sau xa hơn trong cuộc đua phát triển kinh tế.
Hiện tại có hai công cụ quan trọng nhất là bộ óc con người và mạng thông tin toàn cầu, ai cũng có nhưng cơ hội sử dụng không giống nhau. Thành công hay thất bại là tùy thuộc vào ứng xử của từng người, từng quốc gia đối với hai công cụ đó. Các nước đã giàu, sẽ càng giàu vì họ đã chú trọng đặc biệt vào khai thác tài nguyên vô hình và loại tài nguyên này (trí tuệ) càng khai thác càng tăng nhanh hơn, còn tài nguyên hữu hình (tài nguyên, khoáng sản...) càng khai thác càng cạn kiệt; có nghĩa là trí tuệ con người càng khai càng sáng, năng lực sáng tạo càng phát triển. Đây là loại tài sản vô giá, vô tận không phải chỉ của một con người mà còn là tài sản của quốc gia bởi: Tri thức là sức mạnh, tri thức là nền tảng của phát triển bền vững. Tri thức có được nhờ sự tích lũy kiến thức ở các lĩnh vực khác nhau do học tập, rèn luyện và nghiên cứu mà có, nó giúp chúng ta tự tin trong công việc và cuộc sống, nhất là cuộc sống hội nhập.
Hiện tại, phát triển kinh tế của Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đã có nhiều chính sách khuyến khích và tạo động lực cho việc sử dụng tri thức, phát triển năng lực tư duy và khả năng sáng tạo nhằm bắt kịp với môi trường quốc tế trong cuộc cách mạng số. Những năm gần đây, Chính phủ đã chú trọng phát triển năng lực tư duy sáng tạo, phát triển việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm sạch, đã tạo ra những sản phẩm sáng tạo trong nhiều lĩnh vực. Điều đó đang mang đến luồng sinh khí mới trong việc sử dụng tri thức vào phát triển kinh tế.
Song chúng ta chủ yếu vẫn phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp chế biến và gia công, đòi hỏi hàm lượng chất xám ít với nhiều thủ tục hành chính rườm rà, làm ách tắc sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Nếu không thay đổi nhanh hơn nữa cách làm này thì chúng ta luôn làm những việc mà người ta (các quốc gia phát triển) không làm nữa khi họ chuyển qua làm những việc có lợi nhuận cao hơn do họ có nhiều hiểu biết hơn, sáng tạo hơn. Sự tụt hậu sâu hơn của nước ta khi ấy sẽ là tất yếu. Vậy điều gì tạo nên sự khác biệt giữa các quốc gia như vậy? Phải chăng đó là sự khác biệt về tri thức, về sự hiểu biết và việc khai thác vốn tri thức. Thách thức lớn nhất của Việt Nam chính là thách thức vượt qua sự khác biệt này.
2.3. Hệ thống giáo dục - đào tạo của Việt Nam tuy đã có nhiều đổi mới, đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu
Chúng ta vẫn chưa có một nền giáo dục có chất lượng cao để người học được giáo dục và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Giáo dục - đào tạo là chuyện sống còn của đất nước, góp phần chấn hưng đất nước. Giáo dục - đào tạo nếu không giúp đất nước đào tạo ra những người có tinh thần và khả năng sáng tạo, sẽ không thể tiến tới kinh tế tri thức. Như vậy đất nước sẽ bị bỏ lại phía sau một cách nhanh nhất, trong khi kinh tế tri thức là con đường ta cần phải đi và đi càng sớm càng tốt, dù rất gian truân.
Để làm được điều này, hệ thống thiết chế giáo dục phải được hoàn thiện cho mọi cấp học, ngành học, bậc học, kể cả giáo dục chính quy, không chính quy, phi chính quy..., ở cả gia đình và xã hội, cho cả trẻ em và người lớn, để mọi người trở thành những công dân có đầy đủ năng lực, phẩm chất, sáng tạo, đủ sức hội nhập trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp số đang diễn ra nhanh như vũ bão hiện nay. Nhìn lại bối cảnh giáo dục chính quy, không chính quy, phi chính quy của chúng ta hiện nay thấy còn quá nhiều bất cập ở tất cả các cấp học, phương thức học, đặc biệt là ở hệ thống giáo dục đại học..., và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập, phát triển trong điều kiện nền kinh tế chia sẻ, kết nối hiện nay.
Bên cạnh đó, điều quan trọng là bộ phận lớn trong chúng ta (nhất là người lớn) chưa có ý thức sẵn sàng để chuẩn bị hành trang, các kiến thức cần thiết để thích ứng với những cơ hội và thách thức do 4.0 mang lại.
3. Vậy chúng ta phải làm gì?
Có thể khẳng định: Cách mạng số (4.0) mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức, để thích ứng phải phát triển kinh tế tri thức, nâng cao hiểu biết và kỹ năng toàn diện của đội ngũ lao động và toàn dân. Chỉ như vậy thì người lao động mới trở thành lao động tri thức, chúng ta mới có xã hội lao động tri thức; lúc đó, sự khác biệt giữa chúng ta và các nước tiên tiến sẽ thu hẹp lại, và chúng ta cũng sẽ phát triển đất nước bằng vốn tri thức như họ.
Để làm giàu vốn tri thức chỉ có con đường học tập. Học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi hình thức: Chính quy, không chính quy và phi chính quy. Người người học tập là cơ sở để xây dựng Việt Nam thành xã hội học tập, xã hội tri thức. Đây là chủ trương lớn đã được chỉ ra ở nhiều Nghị quyết của Đảng trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là Chỉ thị 11 ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị đã tiếp nối, phát triển tư tưởng của Bác Hồ về xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam. Song tiếc rằng, không phải tất cả lãnh đạo ở các cấp, các ngành, các tổ chức và người lao động nào cũng thấm nhuần và thực hiện. Chính vì vậy mà việc “Học” của xã hội nói chung chưa đạt yêu cầu như mong muốn, dẫn đến hệ lụy như đã nêu ở trên.
Như đã nói ở trên, cuộc cách mạng 4.0 đã cho chúng ta nhiều cơ hội, song hội nhập khu vực và quốc tế cũng đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội lớn cùng nhiều thách thức lớn. Muốn hội nhập chúng ta phải tuân theo luật chơi, các quy định hết sức khắt khe của luật chơi đòi hỏi chúng ta cũng phải có những bộ luật phù hợp, có chiến lược và kế hoạch khôn khéo khi hội nhập để vừa hội nhập, vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân. Do đó, người lớn chúng ta đang công tác ở mọi lĩnh vực phải học để có khả năng xây dựng hệ thống luật pháp và thực hiện chúng một cách thuần thục, sáng tạo, hiệu quả; khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, sáng tạo, nhanh, nhạy, có trình độ hiểu biết về khoa học kinh tế, luật pháp, kinh doanh, các vấn đề về khoa học xã hội để thích ứng nhanh với cuộc sống hiện đại đang đổi thay nhanh chóng hàng ngày.
Hãy thử nghĩ xem: Tư duy và cuộc sống của mỗi cá nhân, cuộc sống gia đình, nề nếp gia phong, gia pháp dòng họ và đời sống xã hội hiện nay so với trước đây có nhiều thay đổi không? Tâm hồn, tư duy của người cao tuổi, người già hiện nay có khác trước không? Và nếu chúng ta không chấp nhận sự khác biệt ấy để cố gắng vươn lên thông qua học tập thì chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Bởi lẽ, thực tế hiện tại vì cuộc sống, người lao động đang có cách suy nghĩ mới, ít quan tâm đến gia đình con cái hơn và con cháu cũng có mức độ quan tâm đến người cao tuổi (ông, bà, cha, mẹ...) không được nhiều như trước đây. Nền nếp, gia phong gia đình, dòng họ đang bị xói mòn. Nếu chúng ta không có đủ kiến thức để đủ sức đáp ứng yêu cầu công việc, động viên thuyết phục, giáo dục con cháu trong gia đình, dòng họ hướng về cội nguồn trong một dòng chảy xã hội không ngừng nghỉ, thì sự bi quan, trách móc, chán nản chỉ làm chúng ta yếu mòn.
Cuộc sống ngày nay đã khác xưa, tiến bộ hơn, văn minh hơn nhưng cũng có nhiều mối đe dọa hơn. Chính sự khác biệt ấy sẽ thôi thúc chúng ta phải đến với môi trường học tập, đến với các câu lạc bộ, các trung tâm văn hóa, y tế, các Trung tâm học tập cộng đồng. Các chương trình học tập riêng biệt sẽ giúp chúng ta xử lý các vấn đề không chỉ làm thay đổi tư duy, tâm lý mà còn đến cả các kỹ năng cần thiết, từ đó chúng ta sẽ thấy tự tin hơn, yêu đời hơn, phát triển hơn. Như vậy, người lớn sẽ luôn có nhu cầu tìm kiếm tri thức mới để tự hoàn thiện mình ở mọi cấp độ. Tri thức được bồi đắp, tư duy sáng tạo sẽ phát triển và chúng ta có thể thích ứng được với sự phát triển của khoa học - công nghệ, với sự đổi thay của cuộc sống.
Nghiên cứu của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra rằng, trong con người Việt Nam yếu tố “âm tính” nhiều hơn, tức là họ chỉ phù hợp với ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Như vậy, họ đã quen với cách làm cũ trên cánh đồng, trên dòng sông, trên rừng, trên biển... và họ đã quen với cách khai thác tài nguyên thiên nhiên để sống. Họ dễ bắt chước, làm theo cách đã có hoặc cách làm của người khác mà ít sáng tạo. Do đó họ chẳng cần học cũng được, thậm chí nếu khai thác được nhiều tài nguyên từ rừng, từ sông, từ biển thì họ còn giàu hơn so với người khác.
Song lịch sử đã chứng minh các yếu tố “dương tính” của con người Việt Nam rất rõ nét: Thông minh, hiếu học, sáng tạo, dũng cảm đương đầu với mọi khó khăn, thách thức... Nhưng những yếu tố này phải có môi trường tốt để duy trì và phát triển. Cụ thể: Sự phát triển của khoa học công nghệ, sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách khuyến khích, động viên, công nhận, đặc biệt cuộc cách mạng số và nền kinh tế kết nối sẽ làm cho các yếu tố “dương tính” của người Việt Nam đã và đang được phát huy.
Hiện tại chúng ta đã nhận thức được vấn đề, chịu khó học hành, năng động, sáng tạo trong tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, chế biến... Sự khác biệt căn bản giữa con người “âm tính” và “dương tính” được nhìn nhận ngày càng rõ nét và đang làm thay đổi cuộc sống của mỗi người. Các tấm gương sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp được vinh danh trong giải thưởng “Nhân tài Đất Việt” 17 năm qua là những minh chứng rõ ràng nhất.
Để trở thành xã hội tri thức với lực lượng lao động tri thức đòi hỏi rất nhiều giải pháp mang tính chiến lược và toàn diện, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục của Việt Nam. Chúng ta phải đổi mới từ tư duy đến tầm nhìn của Lãnh đạo về đào tạo nhân lực, về cấu trúc hệ thống giáo dục để đào tạo được nguồn nhân lực số đầy năng động, sáng tạo; đổi mới, phát triển từ hạ tầng công nghệ thông tin đến cách sử dụng hiệu quả nguồn tri thức hiện có cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Trước tiên, muốn đạt được kết quả tốt trong đào tạo, phát triển nhân lực tại chỗ và nguồn nhân lực chất lượng cao thì vai trò của các trường đại học là rất lớn.
Các trường Đại học của chúng ta, nhiệm vụ chính là đào tạo và nghiên cứu khoa học, là nơi cung cấp nguồn nhân lực tối cần thiết để phục vụ hầu hết yêu cầu của tất cả các vị trí công tác ở tất cả các khu vực kinh tế. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh tế bền vững thì nhất thiết phải có 2 yếu tố: Một hệ thống giáo dục Đại học hoàn chỉnh đẳng cấp quốc tế và một lực lượng lao động chất lượng tốt, mà lực lượng lao động này phần lớn do chính các trường Đại học cung cấp. Nhiệm vụ thật nặng nề nhưng thật vinh quang vì sự phát triển bền vững của đất nước trước hết lại do hệ thống giáo dục Đại học quyết định.
Giáo dục Đại học còn có nhiệm vụ quan trọng là tạo ra các cơ hội cho mọi người học tập suốt đời, tạo điều kiện và sẵn sàng cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo mọi nhu cầu của xã hội. Bởi vì sau khi tốt nghiệp các trường PTTH, Đại học, Trường nghề hoặc cả những người chưa học qua các bậc học luôn có nhu cầu tìm kiếm và trau dồi tri thức mới, không ngừng muốn học tập nâng cao trình độ, hiểu biết của bản thân để phục vụ nhu cầu công tác hoặc nhu cầu cuộc sống. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng số sẽ gạt tất cả những ai kém hiểu biết, lười học tập sang một bên, dành chỗ cho những người đáp ứng yêu cầu của vị trí công việc, thì việc học để trau dồi tri thức lại càng trở nên cấp thiết.
Các đối tượng có nhu cầu học tập có thể kể đến:
1. Những người đang nắm các cương vị lãnh đạo thì luôn muốn phát triển năng lực, trí tuệ, củng cố vị trí và luôn muốn hoàn thiện mình để có uy tín hơn trong tổ chức.
2. Những người đang công tác trong các cơ quan, doanh nghiệp thì muốn nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng cuộc sống nhằm phát triển bền vững bản thân, gia đình thông qua hiểu biết và không muốn có sự cách biệt với đồng nghiệp vì sự yếu kém của mình, nhất là khi cạnh tranh về vị trí công việc đang diễn ra gay gắt hiện nay.
3. Những người đã về hưu thì muốn tìm đến các trường Đại học để đọc, nghe, học và tìm hiểu các chuyên đề phục vụ cho cuộc sống mới; cũng có thể họ muốn khởi nghiệp, muốn tìm hiểu văn hóa ứng xử của người già, họ cũng muốn học các môn về nâng cao sức khỏe...
4. Cán bộ giảng dạy trong các trường Đại học muốn học liên tục để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu.
5. Những thách thức về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay, kể cả đối với sinh viên vừa tốt nghiệp hiện chưa tìm được việc làm muốn trau dồi thêm tri thức, kỹ năng cần thiết để khởi nghiệp hoặc tham gia thị trường lao động, đòi hỏi các trường Đại học phải có chương trình đào tạo lại đáp ứng yêu cầu. Từ đó cũng đòi hỏi chúng ta phải thay đổi nhanh hơn phương pháp đào tạo theo hướng mở, gắn kết với thực tiễn để đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực cần có của đất nước.
Chúng ta phải thay đổi nhanh hơn phương pháp đào tạo theo hướng mở, gắn kết với thực tiễn để đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực cần có của đất nước. (Ảnh minh hoạ)
Như chúng ta đều biết, Báo cáo của Ủy ban quốc tế về giáo dục trong thế kỷ 21 của UNESCO có tiêu đề “Học tập: Kho báu bên trong” nhấn mạnh 4 trụ cột của giáo dục; các đối tượng cần tìm đến các trường Đại học vừa nêu trên là các đối tượng cần 4 trụ cột đó. Các trường Đại học tùy nhiệm vụ của mình và nhu cầu người học mà cần truyền tải 4 điều này tới nhu cầu của mỗi đối tượng trong xã hội một cách hợp lý nhất, nhanh nhất, chính xác nhất. Việc này quả là không dễ dàng nếu tư duy về đào tạo của chúng ta vẫn chậm đổi mới so với sự đổi mới và phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ.
Trong điều kiện đó yêu cầu các trường phải có:
1. Chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đáp ứng nhu cầu.
2. Có môi trường giáo dục tốt, tạo điều kiện và cơ hội học tập cho tất cả mọi người.
3. Hệ thống tài nguyên giáo dục phải phong phú, đây là loại tài nguyên giáo dục mở:
- Giáo trình đa dạng, các chuyên đề luôn cập nhật tri thức mới;
- Các loại chương trình học tập linh hoạt cho thời gian vài ngày, 1 tuần, 1 tháng, 1 năm cho người học cần chứng chỉ, không cần chứng chỉ;
- Các loại chương trình phổ biến kiến thức theo kiểu cầm tay chỉ việc;
- Các loại chương trình liên doanh liên kết với các trường Đại học trong, ngoài nước, với các doanh nghiệp;
- Thư viện hiện đại với tài liệu tham khảo phong phú;
- Trang thiết bị đào tạo hiện đại, đáp ứng nhu cầu.
Tài nguyên giáo dục này sẽ giúp người học khai thác, cập nhật kiến thức khi đang ở bất cứ đâu vì không phải cứ đến trường mới là đi học. Do đó nó phải được điện tử hóa để tạo điều kiện cho tất cả mọi người - những ai muốn học và ham học. Đây cũng là 1 trong những yêu cầu của hệ thống giáo dục mở linh hoạt, liên thông với môi trường bên ngoài, tăng cơ hội tiếp cận tri thức cho mọi người mà buộc chúng ta phải xây dựng để phục vụ cho việc học suốt đời của mọi người. Muốn làm được điều đó, phải chăng các trường Đại học cần mở rộng liên kết đào tạo hơn nữa, cần tăng tính thực tiễn nhiều hơn trong chương trình đào tạo, tham gia tích cực hơn vào hệ thống giáo dục thường xuyên, các trung tâm đào tạo, các Trung tâm học tập cộng đồng.
Trước yêu cầu của nền kinh tế kết nối hay cách mạng 4.0, học tập và học tập suốt đời là con đường duy nhất để phát triển bền vững, là chìa khóa của mọi thành công. Do đó đòi hỏi các trường Đại học cần có nhiều đổi mới, là địa chỉ tin cậy đầu tiên để người học tìm đến để học tập nâng cao trình độ, hiểu biết, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra nhanh chóng hiện nay. Trước bối cảnh đó, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm hoàn thiện các cơ chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết tâm chỉ đạo triển khai các chính sách, tạo điều kiện cho các trường Đại học hoàn thành được nhiệm vụ rất nặng nề mà một thời gian khá dài chúng ta thúc đẩy chậm.
Muốn có nền kinh tế tri thức, phát triển đất nước dựa vào tri thức thì chỉ có con đường học tập, học suốt đời. Mọi người phải nhận thức được điều đó và hệ thống giáo dục đại học phải nhận rõ vị trí, vai trò và quyền lợi của mình trong việc phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu mới./.