Liệu có “ngược dòng” thành công?
Báo cáo trước Quốc hội mới đây, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình cho biết, tăng trưởng GDP quý II/2025 ước đạt 7,6%, đưa GDP 6 tháng đầu năm lên mức khoảng 7,3%, thuộc nhóm cao nhất khu vực và thế giới. Kết quả tích cực này là tiền đề quan trọng để nền kinh tế tăng tốc trong nửa cuối năm. Song, Phó Thủ tướng cũng nhìn nhận, để đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm trên 8% là thách thức lớn.
Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng cũng cho biết, 5 tháng đầu năm nhiều chỉ số sản xuất công nghiệp, chế biến, chế tạo, xuất khẩu, thu hút FDI, tiêu dùng… đạt mức tăng trưởng 2 con số. Tăng trưởng quý II dự báo sẽ cao hơn quý I và đang bám sát với kịch bản đề ra.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng đồng tình, mục tiêu tăng trưởng 8% là thách thức rất lớn. Ở trong nước, mức tăng trưởng tiêu dùng hiện tại chỉ mới trở lại ngưỡng trước đại dịch COVID-19, thấp hơn so với kịch bản đề ra. Hàng loạt dự án tồn đọng với tổng vốn đầu tư trên 5 triệu tỷ đồng đang "nằm chờ" tháo gỡ. Tính đến hết tháng 4/2025, Chính phủ cùng các bộ, ngành, địa phương đã tháo gỡ vướng mắc cho 867 dự án trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, bất động sản… để đưa vào vận hành, tiếp tục đầu tư hoặc khởi động mới. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và khu vực cũng sụt giảm, nếu đạt mục tiêu tăng trưởng 8% là chúng ta đang đi “ngược dòng”.

TS. Bùi Trinh.
Chia sẻ với Reatimes, chuyên gia kinh tế, TS. Bùi Trinh nhìn nhận, số liệu 5 tháng đầu năm cho thấy nền kinh tế vẫn đang nỗ lực bứt phá, nhưng mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên vẫn là một bài toán khó. Ước tính GDP 6 tháng đầu năm đạt khoảng 7,3%, là con số tích cực nếu nhìn vào tương quan quốc tế. Nhưng trong điều kiện cầu nội địa chưa phục hồi bền vững, và đầu tư công chưa tạo được sức lan tỏa đủ lớn, thì mục tiêu GDP cả năm vẫn là một thách thức.
Cùng với đó, báo cáo tháng 5/2025 của Cục Thống kê quốc gia cho thấy, trong khi có 111.800 doanh nghiệp thành lập mới và tái gia nhập thị trường, thì cũng có tới 111.600 doanh nghiệp rút lui.
"Những con số đó cho thấy áp lực đang đè nặng lên khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ", TS. Bùi Trinh nói.
Nhìn lại lịch sử tăng trưởng, TS. Bùi Trinh cho hay, giai đoạn 2005 - 2024, GDP bình quân chỉ ở mức 7,5%; riêng giai đoạn 2010 - 2024 đạt khoảng 6,1%. Chỉ duy nhất năm 2022, Việt Nam đạt mức tăng trưởng 8,54%, là dấu mốc đặc biệt nhưng cũng khó lặp lại trong điều kiện hiện nay.
Đồng thời, mặt bằng giá nhiều loại hàng hóa, từ tiêu dùng đến nguyên liệu đầu vào cũng đang leo thang. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí điện, nước, xử lý rác thải tăng và đặc biệt là những thay đổi trong chính sách thuế đối với nhóm dễ tổn thương là hộ kinh doanh cá thể. Hệ quả là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng, chỉ số giá sản xuất (PPx) bị đẩy cao, còn lợi nhuận doanh nghiệp lại suy giảm.
"Những yếu tố này đang làm suy yếu các chu kỳ sản xuất - tiêu dùng sau và tốc độ tăng trưởng GDP trong thời gian tới có thể không đạt được như kỳ vọng, nếu không có các chính sách đồng bộ, trọng tâm và mang tính chất cải cách thực chất", TS. Bùi Trinh nhận định.
Áp dụng các chính sách trọng cung để nâng đỡ doanh nghiệp tư nhân là cấp thiết
Năm 2023, dữ liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 35 thế giới. Năm 2024, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 476,3 tỷ USD, tăng trưởng GDP khoảng 7,09%. IMF cũng dự báo, năm 2025, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt 506 tỷ USD, xếp hạng 33 toàn cầu. Những con số đó cho thấy sự nỗ lực vượt bậc của Việt Nam, khi quy mô nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh mẽ, gấp 50 lần so với thời kỳ ban đầu (năm 1986 - GDP Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD, xếp thứ 9/10 trong khối ASEAN).

IMF dự báo, năm 2025, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt 506 tỷ USD, xếp hạng 33 toàn cầu. (Ảnh minh hoạ: TTXVN)
Tuy nhiên, TS. Bùi Trinh cho rằng, những con số này chủ yếu phản ánh bề nổi và chưa nói lên bản chất cấu trúc của nền kinh tế. Bởi phân tích cơ cấu nền kinh tế cho thấy Việt Nam vẫn thiên về điều hành chính sách theo hướng trọng cầu, trong khi yếu tố cung, đặc biệt là năng lực sản xuất nội địa vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Mặc dù FDI tăng nhanh, nhưng đóng góp thực chất vào giá trị gia tăng còn hạn chế. Ngược lại, khu vực doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với chi phí sản xuất (thuế, phí, chi phí tiếp cận tín dụng...) ngày càng cao. Trong khi, các chính sách hỗ trợ còn thiếu nhất quán và chưa tạo được dư địa phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia chỉ ra, dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về hội nhập quốc tế, song giá trị gia tăng thực tế mà nền kinh tế Việt Nam thu được từ quá trình này còn hạn chế. Phần lớn xuất khẩu vẫn tập trung vào các ngành gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử và dệt may.
"Dù Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng vị trí này chủ yếu nằm ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị. Điều này đặt ra yêu cầu cần có chiến lược tránh lệ thuộc vào tăng trưởng bề nổi từ FDI và xuất khẩu thô. Mà muốn giảm phụ thuộc vào FDI, thì con đường duy nhất là nâng cao nội lực của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Nội lực ấy không thể chỉ dựa vào kinh tế phi chính thức hay hộ cá thể nhỏ lẻ, mà phải đến từ một cộng đồng doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, sáng tạo và được bảo vệ", ông Bùi Trinh nêu quan điểm.
Trong đó, điểm quan trọng đầu tiên là phải chuyển từ quản lý cầu sang quản lý cung; cải cách thể chế, gắn với chống tham nhũng, lãng phí, để có dư địa vốn cho đầu tư, giảm thuế, phí cho doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng không nên dừng ở ưu đãi tài chính, mà cần tập trung vào việc giảm chi phí đầu vào về năng lượng, đất đai... bởi đây là những chi phí đầu vào bắt buộc, thiết yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
"Với hơn 97% doanh nghiệp trong nước thuộc nhóm nhỏ và vừa, việc tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và chi phí thấp không phải là khuyến nghị, mà là yêu cầu cấp thiết để duy trì nền tảng tăng trưởng trong trung và dài hạn", TS. Bùi Trinh khẳng định.
Song song với đó, là phát huy nội lực văn hóa và các nguồn lực quốc gia trong hợp tác quốc tế; Xây dựng nền kinh tế tự chủ, chú trọng phát triển công nghệ cốt lõi và an ninh kinh tế; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao giá trị hàng Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Nếu làm tốt, Việt Nam chắc chắn sẽ hội nhập với thế giới một cách hiệu quả và bền vững.