Vừa qua, chủ trì cuộc họp về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng (Ban Chỉ đạo 751), Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình, Trưởng ban Chỉ đạo, nhấn mạnh Bộ Chính trị đã kết luận, chỉ đạo tập trung tháo gỡ vướng mắc cho các dự án tồn đọng để đưa vào khai thác, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp, theo đúng tinh thần đổi mới của Nghị quyết 68.
Đến nay, việc tháo gỡ khó khăn cho các dự án đã thu được nhiều kết quả. Trong đó, Chính phủ đã tháo gỡ theo thẩm quyền của mình và chỉ đạo các địa phương tháo gỡ khó khăn cho 1.154 dự án với tổng vốn đăng ký khoảng 675.000 tỷ đồng và hàng trăm nghìn héc-ta đất bị đóng băng. Qua đó, một nguồn lực đất đai và tài chính rất lớn đã được khơi thông.
Cùng với đó là hiệu quả về chống lãng phí. Điển hình như 2 dự án Bệnh viện Bạch Mai và Việt Đức cơ sở 2 sau 10 năm "đắp chiếu", nay được tháo gỡ và giải quyết được lượng tài sản rất lớn.
Chính phủ cũng đã nhận diện nhiều bất cập trong chính sách và thể chế, nhất là quy định về đất đai, đấu thầu còn chồng chéo, thiếu liên thông, cần hoàn thiện. Chủ trương tháo gỡ cho các dự án tồn đọng được đánh giá là sẽ giúp nền kinh tế có thêm nguồn lực hàng triệu tỷ đồng từ nay đến đầu năm sau.
Để hiểu rõ hơn về những tác động của việc tháo gỡ cho các dự án tồn đọng đối với nền kinh tế, Reatimes đã có cuộc trao đổi với TS. Châu Đình Linh, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.

Việc tháo gỡ cho các dự án tồn đọng sẽ giúp khơi thông nguồn lực đất đai và tài chính rất lớn. (Ảnh minh hoạ: Trọng Hiếu)
PV: Thưa TS. Châu Đình Linh, ông đánh giá như thế nào về tác động trực tiếp và gián tiếp của việc tháo gỡ 1.154 dự án tồn đọng, với tổng vốn đăng ký lên tới 675.000 tỷ đồng, đối với sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam?
TS. Châu Đình Linh: Tôi cho rằng việc tháo gỡ 1.154 dự án tồn đọng, với tổng vốn đăng ký lên tới 675.000 tỷ đồng và hàng trăm nghìn héc-ta đất bị "đóng băng" là một bước đi chiến lược và quyết liệt của cơ quan quản lý Nhà nước. Động thái này thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới các vấn đề pháp lý phức tạp và chồng chéo của thể chế, đồng thời mang lại những tác động rất tích cực cho nền kinh tế Việt Nam.
Trước hết, việc này có tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế. Bằng việc giải quyết các dự án tồn đọng, Chính phủ đã khơi thông một lượng lớn nguồn lực tài chính, đất đai, nhân sự và việc làm. Các nguồn lực này sẽ được đưa vào khai thác hiệu quả hơn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và chắc chắn sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP từ nay đến cuối năm. GDP có thể tăng thêm 1-2% và nền kinh tế Việt Nam có thêm nguồn lực để thực hiện mục tiêu tăng trưởng năm nay từ 8,3-8,5%, hướng tới mức hai con số trong giai đoạn tới.
Nếu quá trình xử lý tiếp tục được thực hiện tốt, sẽ tạo ra sự lạc quan và tích cực hơn cho kịch bản tăng trưởng kinh tế.
Từ góc độ của các chủ thể kinh tế, đây là một tin vui lớn. Đối với doanh nghiệp, các dự án bị đình trệ từ lâu nay được Chính phủ quan tâm, hỗ trợ giải quyết về pháp lý, thủ tục, cũng như nguồn lực tài chính từ các tổ chức tín dụng. Điều này giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động và có định hướng chiến lược kinh doanh rõ ràng hơn.
Đối với người dân là những đội tượng thụ hưởng, khi các dự án được triển khai, sẽ giải quyết được vấn đề công ăn việc làm; nguồn lực đất đai sẽ được chuyển hóa thành các khu công nghiệp hay các dự án nhà ở thương mại, nhà ở xã hội, phục vụ nhu cầu của người dân. Các dự án này khi đi vào khai thác sẽ tạo ra giá trị gia tăng từ nguồn vốn đầu tư và gia tăng suất sinh lời.
Với thị trường bất động sản, việc khơi thông các dự án tồn đọng sẽ bổ sung một lượng lớn sản phẩm mới ra thị trường. Điều này giúp cân bằng cung - cầu, đặc biệt trong bối cảnh nhiều địa phương đang thiếu hụt nguồn cung nhà ở, nhất là nhà ở vừa túi tiền.
Đặc biệt, việc tháo gỡ vướng mắc này giúp cơ quan quản lý nhận diện được những bất cập trong chính sách và thể chế, nhất là các quy định về đất đai và đấu thầu, vốn còn chồng chéo và thiếu liên thông. Đây sẽ là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện thể chế, tránh lặp lại những tồn đọng trong tương lai, từ đó thu hút thêm các nhà đầu tư khác tham gia.
Tóm lại, việc khơi thông hàng nghìn dự án tồn đọng là một khởi đầu đầy triển vọng, giải phóng nguồn lực, tạo việc làm và kích cầu đầu tư. Đồng thời, cũng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng niềm tin của doanh nghiệp và là bước đi nền tảng hỗ trợ cho việc hoàn thiện thể chế, pháp luật một cách rõ ràng, minh bạch hơn.
PV: Ông có thể phân tích cụ thể hơn về hiệu quả chống lãng phí mà việc giải quyết các dự án tồn đọng mang lại cho xã hội và ngân sách nhà nước?
TS. Châu Đình Linh: Những dự án bị "đóng băng" không chỉ là những mảnh đất bị bỏ hoang, mà còn là lượng vốn khổng lồ đã được đổ vào nhưng không thể sinh lời. Chẳng hạn, một dự án bất động sản bị vướng mắc pháp lý suốt nhiều năm có thể khiến hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng của doanh nghiệp và ngân hàng bị chôn vùi. Khi những dự án này được tháo gỡ, nguồn vốn sẽ được khơi thông, cho phép doanh nghiệp tiếp tục hoàn thiện và đưa công trình vào khai thác. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp thu hồi vốn và tạo ra lợi nhuận, mà còn kích thích sự luân chuyển của dòng tiền trong nền kinh tế, tránh lãng phí nguồn lực đất đai và tài chính quý giá.
Bên cạnh đó, nhiều dự án tồn đọng là các công trình đã xây dựng dang dở, hoặc thậm chí đã hoàn thiện nhưng không thể đi vào hoạt động. Ví dụ điển hình là hai dự án Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Việt Đức cơ sở 2, đã "đắp chiếu" nhiều năm. Đây là những cơ sở vật chất hiện đại, được đầu tư từ ngân sách nhà nước, nhưng lại không thể phát huy công năng, gây ra sự lãng phí rất lớn. Việc tháo gỡ vướng mắc cho những dự án này giúp sớm đưa các bệnh viện vào hoạt động, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân và khai thác tối đa giá trị tài sản đã đầu tư.
Sự lãng phí lớn nhất của các dự án tồn đọng không chỉ nằm ở vốn và đất đai, mà còn ở tiềm năng kinh tế bị bỏ lỡ. Một dự án được triển khai sẽ tạo ra việc làm cho hàng nghìn lao động, từ công nhân xây dựng đến nhân viên dịch vụ sau này. Khi đi vào hoạt động, dự án sẽ đóng góp vào nguồn thu ngân sách thông qua thuế và các khoản phí khác.
PV: Bộ Chính trị có Kết luận số 77-KL/TW ngày 2/5/2024 về phương án tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án, đất đai trong các kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại một số tỉnh, thành phố; Quốc hội có Nghị quyết 170/2024/QH15 quy định cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, đất đai tại TP.HCM, Đà Nẵng, Khánh Hòa. Một số quan điểm cho rằng, việc tháo gỡ cần áp dụng rộng hơn thay vì chỉ thí điểm ở một số địa phương. Ông có quan điểm như thế nào về vấn đề này?
TS. Châu Đình Linh: Tôi cho rằng, việc thí điểm tháo gỡ các dự án tại một số địa phương trước khi áp dụng trên toàn quốc là một phương pháp tiếp cận cần thiết.
Chúng ta cũng biết, vướng mắc lớn nhất của các dự án chủ yếu nằm ở thủ tục và pháp lý. Hiện tại, có nhiều sự chồng chéo giữa các văn bản luật liên quan đến đất đai, quy hoạch, thủ tục hành chính. Quá trình xử lý hồ sơ thường thiếu sót, sai sót và bị kéo dài do phải đi qua nhiều cấp, nhiều bộ phận, mỗi nơi lại có cách hiểu và áp dụng luật khác nhau.
Bên cạnh đó là tâm lý sợ sai và sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ. Nhiều vụ việc sai phạm đã bị xử lý trong thời gian gần đây khiến họ có tâm lý e ngại, đùn đẩy trách nhiệm. Hơn nữa, những lợi ích và tranh chấp giữa các chủ thể khi thực thi dự án cũng là một rào cản không nhỏ.
Do đó, việc thí điểm là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề này. Khi đã xác định thí điểm, các cơ quan chức năng có thể áp dụng cơ chế đặc cách để vượt qua những vướng mắc về thủ tục và pháp lý. Mục đích của việc thí điểm là để tìm ra những cách làm hiệu quả và phù hợp, rút kinh nghiệm và hoàn thiện cơ chế trước khi nhân rộng, từ đó đảm bảo tính đồng bộ và thông suốt, tránh lặp lại những vướng mắc trong tương lai. Đây là cách tiếp cận đúng đắn để cải thiện hệ thống quản lý và nâng cao hiệu quả thực thi. Sau khi đã thí điểm, cơ quản quản lý nhà nước có thể tiến hành áp dụng trên toàn quốc.
PV: Việc tháo gỡ vướng mắc cho các dự án giúp củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Ông có thể phân tích cụ thể hơn về tầm quan trọng của niềm tin này đối với môi trường đầu tư kinh doanh và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia trong bối cảnh hiện nay?
TS. Châu Đình Linh: Rõ ràng việc tháo gỡ vướng mắc cho các dự án tồn đọng không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế trước mắt mà còn có ý nghĩa trong việc củng cố niềm tin trên thị trường.
Khi các dự án được tháo gỡ, doanh nghiệp sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào các dự án mới. Họ nhìn thấy được sự quyết tâm và hành động cụ thể của Chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp, đặc biệt là những vướng mắc về pháp lý, đất đai. Niềm tin này khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn triển khai các kế hoạch kinh doanh và đầu tư đã bị trì hoãn.
Đối với người dân, họ cũng tin tưởng hơn vào sự hiệu quả của các chính sách của Nhà nước. Niềm tin này tạo ra một tâm lý tích cực, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư, từ đó tạo ra một vòng tuần hoàn tích cực cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các dự án tồn đọng thường liên quan đến một lượng lớn nợ xấu tại các ngân hàng. Khi dự án được giải quyết, dòng vốn bị "đóng băng" sẽ được khơi thông. Điều này giúp doanh nghiệp có khả năng trả nợ, giảm áp lực lên hệ thống tín dụng và hạn chế nguy cơ nợ xấu lan rộng. Các tổ chức tín dụng cũng sẽ có niềm tin hơn vào khả năng thu hồi vốn và sẵn sàng cung cấp nguồn lực tài chính cho các dự án tiềm năng khác. Niềm tin này là yếu tố quan trọng để duy trì sự ổn định của thị trường và thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn.

Việc tháo gỡ vướng mắc cho các dự án không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế trước mắt mà còn có ý nghĩa trong việc củng cố niềm tin trên thị trường. (Ảnh minh họa: Trọng Hiếu)
PV: Thưa ông, việc tháo gỡ khó khăn không đồng nghĩa với hợp thức hóa sai phạm. Vậy theo ông, làm thế nào để Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong quá trình tháo gỡ cho các dự án tồn đọng?
TS. Châu Đình Linh: Tôi cho rằng, chuyển đổi số và minh bạch hóa dữ liệu là chìa khóa để giám sát hiệu quả. Việc số hóa dữ liệu dự án và công khai trên cổng thông tin của Chính phủ giúp tất cả các bên liên quan dễ dàng theo dõi tiến độ dự án theo thời gian thực. Sự giám sát chéo này sẽ giúp dự án có tính khả thi cao hơn, tránh sai phạm và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành. Bên cạnh đó, cần thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện những dấu hiệu sai phạm hoặc trì trệ, ngăn chặn các dự án mới rơi vào tình trạng tương tự trong tương lai.
Để đảm bảo công bằng, cần phân loại rõ ràng các sai phạm. Những sai phạm nhỏ về thủ tục hành chính cần được phân tách rõ với những dự án vi phạm nghiêm trọng liên quan đến pháp luật. Cần có một cơ chế giải quyết công bằng, cân bằng để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Đồng thời, việc thành lập một Ban chỉ đạo với thẩm quyền toàn diện có thể giúp xử lý nhanh chóng các trường hợp cụ thể. Việc trao quyền rõ ràng hơn cho Ban này và cho các địa phương sẽ giúp tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và giải quyết các vướng mắc lợi ích. Ban chỉ đạo sẽ phân loại mức độ tồn đọng và sai phạm, từ đó đưa ra thứ tự ưu tiên giải quyết.
Bên cạnh những giải pháp từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp cũng cần nhìn lại chính mình. Năng lực quản trị yếu kém và thiếu minh bạch trong nội bộ doanh nghiệp cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ra sai phạm và trì trệ dự án. Việc phân loại các dự án tồn đọng theo nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân từ năng lực của doanh nghiệp, sẽ giúp chúng ta đưa ra những giải pháp ưu tiên và phù hợp, từ đó giải phóng nguồn lực cho nền kinh tế một cách hiệu quả nhất.
Về phía các cơ quan và cá nhân được giao nhiệm vụ giải quyết dự án, cần có cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng. Nếu để xảy ra sai phạm trong quá trình xử lý, hoặc có dấu hiệu hợp thức hóa vi phạm, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm. Điều này không chỉ áp dụng với các doanh nghiệp mà còn với cả cán bộ, công chức có liên quan. Việc xử lý nghiêm sẽ tạo ra tính răn đe, đảm bảo rằng mọi hành vi sai trái đều phải chịu trách nhiệm, từ đó củng cố lòng tin của người dân và doanh nghiệp vào một môi trường đầu tư công bằng và minh bạch.
- Xin cảm ơn chuyên gia!
Ngày 11/4/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 751/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo về giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc các dự án tồn đọng (Ban Chỉ đạo 751) để chỉ đạo, giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án tồn đọng, bao gồm các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư công, nguồn vốn tư nhân trong nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn khác (nếu có).
Ngày 18/7/2025, tại Hội nghị toàn quốc sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án, đất đai theo Kết luận số 77-KL/TW ngày 2/5/2024 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 170/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội và triển khai ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án tồn đọng trên phạm vi cả nước, Thủ tướng Chính phủ cho biết, cả nước hiện có 2.981 dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm, với giá trị, nguồn lực rất lớn của xã hội đang bị lãng phí. Các dự án được chia thành ba nhóm: (i) có sai phạm rõ; (ii) vướng thủ tục; (iii) có dấu hiệu vi phạm. Vì vậy, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương rà soát, phân tích, đánh giá và đề xuất hướng xử lý phù hợp.