Cần nhanh chóng xử lý vướng mắc pháp lý của các dự án bất động sản
Báo cáo giải trình trước Quốc hội sáng 1/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, đối với lĩnh vực tín dụng bất động sản, tăng trưởng tín dụng thường cao hơn so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng với những khó khăn của thị trường bất động sản hiện nay thì 70% là khó khăn về pháp lý, cho nên giải pháp bây giờ thì phải tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý, cộng với các doanh nghiệp cần phải rà soát để điều chỉnh giá bất động sản. Như vậy, sẽ kích thích tín dụng cho cả doanh nghiệp xây dựng bất động sản cũng như là người mua nhà.
Về phía Ngân hàng Nhà nước trong những tháng đầu năm, khi điều kiện thuận lợi và cầu tín dụng thấp thì chúng tôi cũng đã như đề cập là điều hành để duy trì thanh khoản dồi dào, điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, cũng ban hành thông tư để cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ và cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải rà soát để giảm thủ tục hành chính cũng như là cho vay, căn cứ trên cơ sở phương án khả thi và có khả năng trả nợ và cũng không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo.
Đối với việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%, Thống đốc cho biết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành dành nhiều thời gian để triển khai gói này, tuy nhiên kết quả vẫn thấp và đúng như các đại biểu đã nêu đó là tâm lý e ngại của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng thì khó có thể đánh giá như thế nào là có khả năng phục hồi. Trước tình hình đó Chính phủ cũng đã trình Quốc hội cho chuyển nguồn này, khoảng 24.000 tỷ đồng cho giảm thuế VAT và hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng đang trình Chính phủ để kiến nghị Quốc hội sửa đổi Nghị quyết 43, bỏ cụm từ "có khả năng phục hồi" để tiếp tục triển khai.
Về gói tín dụng 120.000 tỷ đồng để phát triển các dự án nhà ở xã hội, đây là gói tín dụng do 4 ngân hàng thương mại nhà nước tự nguyện tham gia để thực hiện mục tiêu 1 triệu căn hộ cho công nhân cũng như người có thu nhập thấp, đây là chương trình đến năm 2030 chứ không phải là chương trình chỉ giải quyết trong năm 2022. Nguồn vốn thì do chính các ngân hàng huy động và lãi suất thì giảm từ 1,5% đến 2% do chính từ nguồn lực tài chính của các ngân hàng thương mại, điều này thể hiện sự tự nguyện và tinh thần trách nhiệm của 4 ngân hàng thương mại này.
Ngân hàng Nhà nước chỉ hướng dẫn về lãi suất áp dụng trong thời gian ưu đãi để triển khai thống nhất và hiện nay Bộ Xây dựng cũng đã có các hướng dẫn và ủy quyền cho các địa phương công bố danh mục dự án. Có thể nói rằng nhu cầu về nhà ở xã hội và nhà ở công nhân là cao nhưng nhu cầu vay lại là một vấn đề, bởi vì quyết định vay để mua một căn hộ phải là do người dân, gói này sẽ được triển khai trong thời gian tới. Đặc biệt là trong Luật Nhà ở trình Quốc hội trong kỳ này đã có một điểm là cho phép các doanh nghiệp mua nhà để có thể bố trí nhà ở cho công nhân, đây cũng là một điểm rất tích cực để gói này được tăng dư nợ giải ngân.
Về vấn đề tái cơ cấu ngân hàng yếu kém, Thống đốc cho biết: “Có thể nói rằng đây là một việc tồn đọng và rất khó xử lý, mong đại biểu Quốc hội thấu hiểu, chia sẻ là tái cơ cấu một ngân hàng yếu kém trong điều kiện bình thường đã rất khó rồi, mà trong điều kiện khó khăn như thế này lại càng khó hơn. Tuy nhiên, thực tế Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ rất quyết liệt thực hiện. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ, Thủ tướng Chính phủ đã họp với ngân hàng đầu tiên và cũng yêu cầu phải tiến hành quyết liệt các giải pháp để tái cơ cấu. Cho đến nay, các ngân hàng yếu kém đã trình xin chủ trương cấp có thẩm quyền và hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng như các bộ, các ngành dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đang thực hiện rất quyết liệt các bước để trước khi phê duyệt đề án chi tiết theo đúng chủ trương của cấp có thẩm quyền và theo đúng quy định của pháp luật”.
Doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng thuận nếu đủ điều kiện
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, trong năm 2022 và 2023 thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong một bối cảnh đầy khó khăn, thách thức và có rất nhiều những diễn biến mới phức tạp hơn, khó khăn hơn và khó lường hơn so với thời điểm mà Quốc hội và Chính phủ ban hành nghị quyết. Trong khi chính sách tiền tệ cũng được giao khá nhiều nhiệm vụ và những nhiệm vụ này khó có thể đạt được cùng một lúc. Trong điều kiện đó thì Ngân hàng Nhà nước đã kiên định xuyên suốt với mục tiêu là giữ đại cục, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và theo dõi sát diễn biến, tình hình để quyết định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, từng giai đoạn để ứng phó linh hoạt.
Tuy nhiên, điều hành lãi suất thì cũng cần phải được xem xét trong tổng thể điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo được đại cục về ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt là đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Năm 2022 có 2 lý do rất quan trọng để chúng ta phải chấp nhận mặt bằng lãi suất cao hơn, đó là lãi suất quốc tế thì đồng loạt tăng nhanh và mạnh, ở trong nước thì lạm phát của chúng ta mặc dù năm 2022 bình quân tăng 3,15%, tuy là thấp so với mục tiêu nhưng vẫn cao hơn so với mức 1,84% năm 2021. Đặc biệt là trong nửa cuối năm 2022 thì lạm phát đang có xu hướng tăng nhanh từng tháng và đến cuối năm thì lạm phát so với cùng kỳ đã ở mức khoảng 5% và đặc biệt lạm phát cơ bản bình quân đã khoảng 5% và cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của lạm phát năm 2021 là 0,84%. Chính vì như vậy mà điều hành không thể chủ quan với lạm phát.
Điểm thứ hai là áp lực mất giá của đồng Việt Nam rất lớn trong năm 2022 khi các nước thắt chặt chính sách tiền tệ và đồng đôla tăng giá rất mạnh. Vào thời điểm tháng 9, tháng 10 năm ngoái, đồng Việt Nam áp lực mất giá lên đến 9-10%. Cho nên lúc đấy nếu không có những giải pháp linh hoạt và đồng bộ thì khó có thể ổn định được mức tỷ giá chỉ mất giá 3,5% trong năm 2002.
Thống đốc phân tích thêm: “Nếu chúng ta để đồng Việt Nam mất giá trên 10% thì điều gì sẽ xảy ra? Doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn, bởi vì doanh nghiệp Việt Nam của chúng ta thâm hụt hằng năm rất lớn và sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài, nếu tỷ giá tăng cộng hưởng với mặt bằng giá thế giới tăng cao thì chi phí đầu vào sẽ tăng cao và chắc chắn lạm phát sẽ tăng cao, chưa kể đến doanh nghiệp Việt Nam cũng vay một lượng lớn vốn nước ngoài và nghĩa vụ trả nợ sẽ tăng lên và sẽ rất khó khăn. Cho nên, vấn đề này ít được nhắc đến mà tập trung chủ yếu đối với vấn đề lãi suất, khi ổn định được tỷ giá trở lại và với điều kiện tăng chậm lại của lạm phát thì trong những tháng đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã rất quyết liệt và điều chỉnh 3 lần mức điều hành lãi suất, đưa mặt bằng lãi suất của các khoản cho vay mới giảm khoảng 0,9% bình quân so với cuối năm 2021”.
Đối với điều hành tín dụng, Thống đốc khẳng định, những giải pháp, liều lượng chính sách và thời điểm được Ngân hàng Nhà nước cân nhắc rất kỹ lưỡng, tất cả để hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và tạo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân, không vì mục tiêu rằng nào khác.
Về việc tiếp cận tín dụng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định, về cơ chế, chính sách cho vay thì vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi về mặt cơ chế, chính sách. Năm 2022 thì tăng trưởng tín dụng là 14,16% nhưng 5 tháng đầu năm của 2023 chỉ tăng khoảng 3%, cũng không thể nói rằng đây là do chính sách vì không có gì thay đổi. Còn về phía các tổ chức tín dụng thì những tháng đầu năm dư địa về room tín dụng thì rất thoải mái, không bị chậm và thanh khoản hệ thống thì được Ngân hàng nhà nước duy trì rất dư thừa và không có lý do gì để các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền mà khi doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn lại không cho vay.
“Từ phía doanh nghiệp thì chúng tôi thấy có một số nhóm doanh nghiệp như sau, đối với các doanh nghiệp không có đầu ra và như rất nhiều đại biểu nêu là không có đơn hàng, giải pháp là phải tháo gỡ khó khăn đầu ra. Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo quyết liệt để xúc tiến thương mại, tuy nhiên việc này cũng cần phải có thời gian cho nên doanh nghiệp cũng như các cơ quan cũng cần hướng đến để khai thác thị trường nội địa với 100 triệu dân để thay thế cho sự suy giảm của cầu nước ngoài. Còn đối với doanh nghiệp và rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nói rằng rất khó khăn sau đại dịch COVID-19, không đủ điều kiện vay vốn thì cũng không thể tiếp cận được vốn ngân hàng, theo đó thì cần có các giải pháp để cải thiện điều kiện vay vốn, có thể thông qua các chính sách như là bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ”, bà Hồng cho biết.