Hiện nay, mặc dù nhiều hoạt động kinh tế đã trở nên dễ tiếp cận hơn và cho phép người lao động có thể làm việc từ xa nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhưng mức độ chênh lệch về thu nhập, tỷ lệ việc làm và mức độ tăng trưởng tại Hoa Kỳ đã tăng lên đáng kể trong vài thập kỷ trở lại đây. Trong khi các khu vực ở vùng Trung Tây và phía Tây Bắc chứng kiến dân số sụt giảm mạnh (các khu vực màu nâu trong Hình 1), thì các khu vực vùng miền Nam và miền Tây Hoa Kỳ lại có sự tăng trưởng nổi bật về dân số, việc làm và thu nhập (các khu vực màu xanh trong Hình 1).

Hình 1: Bản đồ nước Mỹ thể hiện xu hướng di cư nội địa giai đoạn 5 năm (tháng 7/2019 – 2024) và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 10 năm (2013 – 2023). Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ; Gruen Gruen + Associates
Việc giá nhà tăng cao ở các khu vực đang phát triển đã trở thành rào cản lớn đối với hoạt động di cư trong nước nói chung và với người lao động có mong muốn tiếp cận các cơ hội kinh tế nói riêng, đặc biệt là những lao động có trình độ thấp. Về lâu dài, tình trạng giá nhà quá cao được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng và làm trầm trọng thêm chênh lệch thu nhập. Do đó, các khu vực "giàu" việc làm cần được khuyến khích xây dựng nhà ở.
Biến động dân số theo khu vực ở Hoa Kỳ

Phân vùng của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ: Tây, Trung Tây, Nam và Đông Bắc. (Nguồn: Wikipedia)
Trong giai đoạn 5 năm (tháng 7/2019 - tháng 7/2024), tại Hoa Kỳ, dân số khu vực miền Nam đã tăng thêm khoảng 3,2 triệu người di cư nội địa, trong khi vùng Trung Tây giảm khoảng 702.000 người (riêng tiểu bang Illinois sụt giảm khoảng 509.000 người) và vùng Đông Bắc có khoảng 1,5 triệu người đã chuyển đi (với hơn 1 triệu người rời khỏi tiểu bang New York).
Sự chuyển dịch dân số bởi di cư nội địa chủ yếu được ghi nhận dọc theo Bờ Đông Hoa Kỳ. Trong 5 năm, những tiểu bang miền Nam chứng kiến sự tăng trưởng dân số cao nhất bao gồm: Florida (gần 985.000 người); Texas (hơn 856.000); Bắc Carolina (hơn 454.000); Nam Carolina (gần 354.000) và tiểu bang Tennessee (gần 300.000 người).
Vốn chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng dân số Hoa Kỳ, nhưng các tiểu bang miền Núi thuộc vùng Tây Mỹ lại được ghi nhận là điểm đến phổ biến nhất của làn sóng di cư trong nước. Số lượng lớn người tái định cư trên khắp các tiểu bang như Idaho, Montana, Arizona, Utah, và Colorado đã khiến tổng dân số tiểu vùng miền Núi tăng khoảng 3%, trở thành khu vực có chỉ số tăng trưởng dân số cao nhất cả nước kể từ cuộc tổng điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2020. Phần lớn sự tăng trưởng này là hệ quả trực tiếp của làn sóng di cư từ tiểu bang California lân cận.
Khoảng cách phát triển giữa các khu vực đã khiến nhiều nơi trở nên khó khăn, trong khi những địa bàn khác ngày càng giàu mạnh. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, chênh lệch thu nhập trung bình đã tăng hơn 40% trong giai đoạn từ năm 1980 đến 2021, cho thấy rằng các hoạt động kinh tế thực chất đang có xu hướng tập trung về một số khu vực nhất định.
Đóng góp của vùng nói chung và từng tiểu bang nói riêng vào tăng trưởng GDP cả nước đã phản ánh xu hướng di cư nội địa cùng sự gia tăng chênh lệch thu nhập. Sản lượng kinh tế và việc làm tại các khu vực "nam châm" phát triển như tiểu vùng Nam Đại Tây Dương hay tiểu vùng miền Núi thuộc Tây Hoa Kỳ đã tăng gấp 2-3 lần so với tốc độ tăng trưởng tại một số vùng Trung Tây Hoa Kỳ.
Từ năm 2013 đến 2023, GDP thực của các tiểu bang miền Núi vùng Tây và Nam Đại Tây Dương lần lượt tăng 40,4% và 31,2%. Tổng số việc làm tại mỗi khu vực cũng gia tăng 27-28% chỉ trong vòng một thập kỷ.

Sự khác biệt trong tăng trưởng sản lượng kinh tế và việc làm giữa các vùng của Hoa Kỳ. (Nguồn: Cục Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ; Gruen Gruen + Associates)
Ngoại trừ tiểu bang Maine (ME) nằm ở vùng Đông Bắc, tất cả những tiểu bang ghi nhận mức gia tăng dân số từ di cư và tăng trưởng GDP cao hơn trung bình đều nằm ở vùng Tây hoặc Nam Hoa Kỳ. Ngược lại, ngoài một số tiểu bang vốn có nền kinh tế yếu như New Mexico, Mississippi và Louisiana, thì xu hướng sụt giảm dân số cùng mức tăng trưởng GDP dưới trung bình đều ghi nhận tập trung tại vùng Trung Tây và Đông Bắc Hoa Kỳ.
Mặt khác, mặc dù miền Tây Hoa Kỳ cũng có tình trạng suy giảm dân số, chủ yếu do mức sống quá đắt đỏ tại những thành phố như San Francisco, Los Angeles, Seattle và Hawaii, nhưng vùng này nói chung vẫn giữ vững vai trò trung tâm kinh tế của cả nước, với mức tăng trưởng GDP thực tế được ghi nhận cao nhất trong thập kỷ qua. 5 tiểu bang miền Tây - dẫn đầu bởi California, theo sau là các tiểu bang có nền kinh tế phát triển hàng đầu khu vực bao gồm Washington, Arizona, Colorado và Utah - tiếp tục lớn mạnh và hiện chiếm gần 25% GDP của Hoa Kỳ.
Từ năm 2013 đến 2023, chỉ 11 tiểu bang chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP thực tế lớn hơn 3% mỗi năm, dao động từ 3,1-4,5%. Những tiểu bang này chỉ nằm ở khu vực phía Tây và Nam Hoa Kỳ.

So sánh số lượng người di cư theo độ tuổi đến California và Florida năm 2023. (Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, Khảo sát Cộng đồng Hoa Kỳ năm 2023; Gruen Gruen + Associates)
Theo ước tính năm 2023, so với tiểu bang Florida, California tiếp tục trở thành điểm đến hấp dẫn hơn với người lao động trẻ (từ 18-34 tuổi). Tuy nhiên, số lượng người lao động trưởng thành (từ 25-54 tuổi) nhập cư khá tương đồng giữa hai tiểu bang.
Sự khác biệt lớn nhất trong xu hướng di cư nội địa được ghi nhận tại nhóm người lớn tuổi hơn. Một phần sự thay đổi trong tổng dân số của tiểu bang California, Florida và các tiểu bang miền Nam có chính sách thân thiện với người nghỉ hưu được cho là xuất phát từ xu hướng dịch chuyển của nhóm dân số sắp rời khỏi lực lượng lao động.
Về yếu tố tự nhiên và tiện ích đáp ứng nhu cầu sống, sự khác biệt trong điều kiện tự nhiên (như thời tiết) và tiện ích nhân tạo (như bảo tàng nghệ thuật, nhà hàng, công viên…), cùng sự khác biệt năng suất (chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng, trình độ lao động, quy mô thị trường lao động, quy mô doanh nghiệp và cơ cấu kinh tế) dẫn đến chênh lệch trong số lượng việc làm và nguồn thu nhập mà một khu vực có thể mang lại cho lao động.
Khi một bộ phận dân số trở nên khá giả với mức thu nhập cao hơn, khả năng chi trả của họ cho những địa điểm có các bãi biển và điều kiện tự nhiên tốt với thời tiết dễ chịu như tại Florida, Bắc và Nam Carolina, đã tăng lên đáng kể. Trong một số trường hợp, các hộ gia đình chấp nhận mức thu nhập thấp hơn hoặc trả giá nhà cao hơn để sống ở những địa điểm có đầy đủ dịch vụ tiện ích.
Chính sách hạn chế trong sử dụng đất đai của Hoa Kỳ
Biểu đồ 1 dưới đây cho thấy mức độ dịch chuyển nhà ở của người dân tại Hoa Kỳ. Kể từ cuối những năm 1980, tỷ lệ dịch chuyển đã giảm liên tục và rõ rệt, từ khoảng 18% vào năm 1988 xuống dưới 8% vào năm 2023. Số hộ gia đình di chuyển sang một quận khác đã giảm gần một nửa, từ 6,2% vào năm 1988 xuống còn 3,2% vào năm 2023. Trong khi đó, tỷ lệ hộ gia đình chuyển chỗ ở trong cùng một quận cũng giảm từ khoảng 12% năm 1988 xuống dưới 5% vào năm 2023.

Biểu đồ 1: Xu hướng dịch chuyển nhà ở của người dân Mỹ trong giai đoạn 1988 – 2023. Total Housing Movers: Tỷ lệ tổng số người chuyển nhà mỗi năm / Housing Movers to Different County: Tỷ lệ người chuyển nhà sang một quận khác - mức độ di chuyển xa hơn trong phạm vi nội địa Mỹ. (Nguồn: Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ)
Giá nhà đất tăng cao khiến nhiều nguồn lực bị phân bố không hiệu quả. Những thành phố có năng suất tốt và nhiều cơ hội việc làm nhất nhưng lại có các quy định nghiêm ngặt về hạn chế sử dụng đất đối với nguồn cung nhà ở mới, đã làm hạn chế đáng kể khả năng tiếp cận các cơ hội kinh tế của một lực lượng lao động ở các loại hình.
Các nhà kinh tế học Kyle F. Herkenhoff, Lee E. Ohanian, và Edward C. Prescott đến từ Đại học Minnesota đã mô tả trong một bài báo vào năm 2018 rằng, tình trạng nguồn cung nhà ở không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường khiến giá nhà tăng lên sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng GDP và tác động đến quyết định của người dân, đặc biệt là những hộ gia đình có thu nhập thấp, trong việc di chuyển đến những khu vực có hiệu suất kinh tế ổn định và nguồn thu nhập cao hơn.
Để hiểu rõ hơn xu hướng mà các nhà kinh tế học này chỉ ra, đơn cử chính là xem xét trường hợp của New York - một thành phố chứng kiến tốc độ tăng trưởng năng suất và tiền lương nhanh hơn mức trung bình, nhưng không xây dựng nhiều đơn vị nhà ở tương xứng. Vì vậy, cư dân nơi đây phải chi trả một phần, thậm chí là phần lớn tổng thu nhập của họ cho nhà ở hoặc chấp nhận trả số tiền thuê nhà cao hơn.
Ở thành phố Buffalo, cả lao động trình độ cao và lao động phổ thông đều biết rằng các cơ hội việc làm tại New York có mức lương cao hơn so với công việc họ đang làm tại Buffalo, tuy nhiên chỉ những lao động trình độ cao cho rằng lựa chọn di chuyển đến New York làm việc sẽ có lợi hơn cho họ. Và mức thu nhập trung bình tại New York đã nhanh chóng tăng vượt trội so với thành phố Buffalo.
Thật vậy, vào đầu những năm 1980, thu nhập trung bình của các hộ gia đình tại khu vực trung tâm Buffalo và thành phố New York khá tương đồng, nhưng tốc độ tăng trưởng thu nhập của Buffalo sau đó chậm hơn đáng kể so với New York. Theo ước tính năm 2023, thu nhập bình quân đầu người tại thành phố New York và Buffalo lần lượt là 91.000 USD và 61.000 USD.
Một số khuyến nghị
Tại các thành phố, đầu tư công vào các dự án như trung tâm hội nghị, sân vận động, hay các dự án lớn phổ biến khác… hướng tới mục tiêu gia tăng cơ hội kinh tế, việc làm và thu nhập, trên thực tế sẽ khó có thể bù đắp cho những thiếu sót trong các điều kiện căn bản quyết định sự phát triển bền vững của khu vực.
Tuy nhiên, các thành phố có thể sử dụng đầu tư công một cách thận trọng và hợp lý vào các cơ sở hạ tầng, tiện ích và dịch vụ để thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao cùng những doanh nghiệp phụ thuộc vào nhóm nhân tài này. Mặt khác, khi các tiện ích và dịch vụ được phát triển một cách thực chất, bền vững cũng sẽ góp phần tăng sức hấp dẫn của khu vực với khách du lịch.
Đơn cử, Omaha – một thành phố tại bang Nebraska, đã xây dựng một nhà hát, một trung tâm khoa học, đồng thời cải tạo nhiều công viên tại trung tâm thành phố. Những cơ sở hạ tầng bổ sung này đã góp phần lớn vào quá trình phục hồi kinh tế của khu vực sau đại dịch Covid-19 thông qua việc gia tăng lượng khách tham quan vào buổi tối và cuối tuần, cũng như thúc đẩy gia tăng dân số sinh sống tại đây.
Trên cơ sở đó, nhìn chung các đô thị có thể khuyến khích gia tăng nguồn cung nhà ở cần thiết thông qua một số giải pháp:
Thứ nhất, xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư cho cơ sở hạ tầng thiết yếu, bao gồm đường bộ, mạng lưới giao thông, hệ thống thoát nước… để đáp ứng nhu cầu sống của các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Thứ hai, tháo gỡ các rào cản pháp lý đối với mô hình phát triển đô thị nén và đa chức năng, bao gồm việc xây dựng các khu nhà ở bên trong và gần xung quanh những nơi tập trung nhiều việc làm như khu công nghiệp.
Thứ ba, quy hoạch thêm quỹ đất cho các dự án nhà ở có mật độ cao một cách phù hợp. Việc nâng mật độ xây dựng tối thiểu tại các khu vực đô thị có thể giúp giảm thiểu tình trạng giá nhà tiếp tục leo thang.
Thứ tư, công nhận nhà ở là một yếu tố quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế địa phương và khu vực.
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình xem xét và phê duyệt cho mọi loại hình nhà ở, đặc biệt là nhà ở có giá phải chăng.
Cuối cùng, nỗ lực giảm thiểu các khoản chi phí tác động đến khả năng gia tăng nguồn cung nhà ở, nếu điều kiện cho phép.
Tóm lại, việc giá nhà tăng cao ở các khu vực đang phát triển ở Hoa Kỳ là rào cản lớn đối với hoạt động di cư trong nước nói chung và với người lao động có mong muốn tiếp cận các cơ hội kinh tế nói riêng, đặc biệt là những lao động có trình độ thấp. Về lâu dài, tình trạng giá nhà quá cao được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng và làm trầm trọng thêm chênh lệch thu nhập.
Mặc dù những đề xuất nêu trên có thể chưa phải là tất cả, nhưng có thể nói việc cải thiện cơ sở hạ tầng và những tiện ích, dịch vụ đô thị tại các khu vực chưa phát triển sẽ là một phần then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế tại chỗ nhằm thu hút người lao động và các doanh nghiệp vào đầu tư, từ đó tạo công ăn việc làm, hình thành cộng đồng dân cư mới bên ngoài các khu vực đã phát triển và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng./.