Hết 6 tháng đầu năm 2023, bức tranh kinh tế tuy đã có những dấu hiệu phục hồi nhẹ, nhưng vẫn cho thấy những thách thức, khó khăn ở tầm vĩ mô. GDP tăng 3,72% chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020 trong giai đoạn 2011-2023, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ đã đề ra tại Nghị quyết 01/NĐ-CP là 6,2%. Đặc biệt, đến nay, dư nợ tín dụng mới tăng được 4,73% so với cùng kỳ năm ngoái; số tuyệt đối là 12 triệu 423 nghìn tỷ đồng; số tiền huy động được là 12 triệu 691 nghìn tỷ đồng. Trong khi thanh khoản của các ngân hàng đang thừa, tốc độ tín dụng lại tăng trưởng chậm.
Nguyên nhân tăng trưởng tín dụng thấp được cho là đến từ nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và người dân giảm mạnh, cho dù Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần giảm lãi suất cho vay. Do thiếu đơn hàng, hoạt động sản xuất đình trệ, chi phí nhân công và logistic tăng cao, khiến nhiều doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn mở rộng kinh doanh. Mặt khác, nhiều chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng phản ánh rằng họ không thể tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng do không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản đảm bảo.
Doanh nghiệp “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”
Sáu tháng đầu năm 2023, hoạt động xuất - nhập khẩu tiếp tục đà suy giảm dù có phần chậm lại (giảm 15,2%), trong đó xuất khẩu giảm 12,1%, dẫn đến sản xuất công nghiệp bị thu hẹp (giảm 1,2% so cùng kỳ). Chỉ số PMI sản xuất luôn ở mức thu hẹp dưới 50 điểm từ tháng 11/2022 đến nay. Thu hút vốn FDI kém khả quan, vốn đăng ký giảm 4,3%, giải ngân FDI tăng nhẹ 0,5%; thu ngân sách nhà nước giảm 7,8% do kinh tế tăng trưởng thấp. Hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, trong đó số doanh nghiệp đăng ký mới và quay trở lại thị trường giảm 3% trong khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 20%.
Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm; tăng trưởng tín dụng thấp trong khi nợ xấu gia tăng. Nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng cuối năm 2022 khoảng 1,92% và tăng lên 2,91%, nợ xấu gộp tăng từ mức 4,5% cuối năm 2022 lên 5% vào cuối quý I/2023, nhưng cơ bản trong tầm kiểm soát. Tình trạng thiếu việc làm, cắt giảm lao động, giờ làm, giảm thu nhập ở một bộ phận doanh nghiệp vẫn diễn ra ở nhiều địa phương, trong đó có cả những đầu tàu kinh tế như Hà Nội, TP.HCM.
Theo đánh giá của TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu tại Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, hiện nay doanh nghiệp đang gặp phải bốn khó khăn, vướng mắc chính, gồm:
Thứ nhất là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh. Dù đang được quan tâm cải thiện, tháo gỡ dần, khâu thực thi vẫn chậm và yếu, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư với thị trường.
Thứ hai là vấn đề tài chính, thể hiện ở ba khía cạnh. Trước hết là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn. Điều này đã và đang được Quốc hội, Chính phủ hỗ trợ thông qua việc cho phép giãn hoãn tiền thuế, phí, tiền thuê đất năm 2023, giảm 2% thuế GTGT và giảm 50% mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô trong 6 tháng cuối năm. Tổng giá trị của các chính sách hỗ trợ này theo ước tính của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV là khoảng 206 - 207 nghìn tỷ đồng, tương đương NSNN giảm thu khoảng 60 - 61 nghìn tỷ đồng.
Tiếp theo là nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau, cùng với hạn chế về tiếp cận vốn, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về thanh khoản khi thành phần tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong cung tiền tăng chậm lại kể từ quý II/2022, và thậm chí giảm kể từ tháng 2/2023. Từ đó dẫn tới tốc độ tăng cung tiền (so với cùng kỳ) đã liên tục giảm từ tháng 1/2022 đến tháng 3/2023, trước khi tăng nhẹ trong tháng 4/2023.
Cuối cùng là khả năng tiếp cận vốn. Đối với kênh tín dụng, theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 30/6/2023, dư nợ tín dụng nền kinh tế đạt trên 12,4 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 4,73% so với đầu năm (đến nay giảm về mức khoảng hơn 4%), tương đương với cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn nhiều cùng kỳ của các năm còn lại trong giai đoạn 2018-2022. Trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp khoảng 6,3 triệu tỷ đồng (tăng 4,66% so với cuối năm 2022, chiếm 51% dư nợ nền kinh tế). Dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng gần 4% so với cuối 2022, chiếm khoảng 19% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó, tăng trưởng tín dụng thấp ở hầu hết các lĩnh vực (trừ xây dựng).
Bên cạnh đó, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp, do thị trường cổ phiếu phục hồi chậm, thị trường TPDN tiếp tục trầm lắng trong bối cảnh nhiều yếu tố bất lợi từ cuối năm 2022 vẫn chưa kết thúc. Hết 6 tháng đầu năm 2023, mới có gần 49 nghìn tỷ đồng TPDN được phát hành, giảm 73,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Khó khăn thứ ba của doanh nghiệp là nghẽn cả đầu vào lẫn đầu ra. Chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý III/2023.
Thứ tư là vấn đề lao động. Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu, việc làm, thu nhập giảm, chi tiêu giảm,...
Nguyên nhân khiến doanh nghiệp gặp khó, theo phân tích của TS. Cấn Văn Lực, đến từ môi trường bên ngoài và nội tại của doanh nghiệp. Về khách quan, kinh tế thế giới cũng đang trải qua thời kỳ khó khăn do lạm phát tăng, nhiều ngân hàng trung ương vẫn kiên trì với chính sách thắt chặt tiền tệ, chiến tranh Nga - Ukraine,... Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao, do đó cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực.
Tuy nhiên, bản thân nhiều doanh nghiệp cũng bộc lộ những bất cập, điểm yếu như: năng lực quản trị còn yếu, năng lực dự báo tình hình hạn chế; năng lực cạnh tranh còn thấp, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thấp, mức độ không sâu nên dễ bị thay thế, hoặc cắt bỏ trong bối cảnh khó khăn; phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu trong khi chưa đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, đầu tư dàn trải.
Mở đường cho tín dụng cần tháo gỡ khó khăn ở cả phía cung và cầu
Nhận diện sớm những thách thức lớn với kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2022, cho đến nay, Quốc Hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, khó khăn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đối với chính sách tài khóa, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/NĐ-CP về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí năm 2023 với tổng quy mô khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng. Tổng giá trị các chính sách hỗ trợ này khoảng gần 200 nghìn tỷ đồng, theo đó, NSNN giảm thu khoảng 65 nghìn tỷ đồng.
Đối với chính sách tiền tệ, từ cuối quý 1 đến hết tháng 6/2023, ngoài 4 lần giảm lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay, ngày 10/7/2023, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức năm 2023 với mức giao toàn hệ thống khoảng 14% (mức giao tháng 2 cho toàn hệ thống là khoảng 11%).
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ nhằm kiểm soát nợ xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn cho người dân, doanh nghiệp và Thông tư 03/2023/TT-NHNN nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư TPDN của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường tổ chức tín dụng. Cùng với đó, gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng của 4 ngân hàng thương mại lớn để cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5% - 2% so với lãi suất thị trường và gói tín dụng 15 nghìn tỷ đồng cho vay lâm, thủy sản cũng đã chính thức được hướng dẫn triển khai.
Đối với một số lĩnh vực “nóng” khác như bất động sản, du lịch, y tế, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quyết sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các lĩnh vực này và đem lại kết quả nhất định.
Theo đề xuất của TS. Cấn Văn Lực và Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, trong thời gian tới cần phải ưu tiên thực hiện các nhóm giải pháp khơi thông cả nguồn cung, tức là phía Chính phủ và các cơ quan quản lý, và nguồn cầu tín dụng, tức là phía người dân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nói chung. Các nhóm giải pháp tháo gỡ khó khăn từ phía nguồn cung bao gồm:
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc Hội, Chính phủ. Theo đó, cần lưu ý phải rút ngắn độ trễ chính sách, để chính sách tác động nhanh hơn, quyết liệt hơn. Với chính sách tiền tệ, ngoài việc cho phép cơ cấu lại nợ, mua lại trái phiếu, các gói tín dụng, cần tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay; đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay.
Với chính sách tài khóa, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế giá trị gia tăng, xem xét giảm tỷ lệ đóng BHXH cho doanh nghiệp. Cùng với đó, xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi, nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững; nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển và các quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Thứ hai, đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022 - 2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng, bao gồm: vốn đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713 nghìn tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; kích cầu tiêu dùng nội địa và thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và TP.HCM
Thứ tư, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả, đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, xây dựng, bất động sản, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng.
Thứ năm, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp, từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng.
Thứ sáu, gia tăng nguồn lực cho các tổ chức tín dụng để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Để tăng nguồn lực cho các tổ chức tín dụng, cần tiếp tục cho các ngân hàng thương mại nhà nước giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các tổ chức tín dụng dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, cũng như tiết giảm chi phí, có điều kiện triển khai gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thứ bảy, đồng bộ phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN, cùng là tăng khả năng huy động vốn trung – dài hạn của doanh nghiệp, giảm bớt áp lực tín dụng trung dài hạn cho hệ thống ngân hàng; có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ “cận biên” lên “mới nổi”.
Thứ tám, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế, nhất là sửa đổi luật Đất đai, luật Nhà ở, luật Kinh doanh bất động sản,...cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách, quan tâm xây dựng thể chế chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức.
Về phía cầu, cụ thể là doanh nghiệp, cần phải tăng cường sức mạnh nội tại bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó tập trung vào việc tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn, cân đối lại dòng tiền và chi phí, lập kế hoạch, chiến lược với tầm nhìn dài hạn.
Theo TS. Cấn Văn Lực, doanh nghiệp cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành công cụ nợ hoặc vay vốn và giải quyết đúng các cam kết trả nợ, chấp nhận bán tài sản nếu cần, chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với trái phiếu đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần nâng cao tính công khai, minh bạch trong huy động vốn, sử dụng vốn và đa dạng hóa nguồn vốn, tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng; tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá.
Cùng với đó, việc duy trì hoạt động kinh doanh để tồn tại qua thời kỳ trầm lắng là điều cần thiết, nhưng doanh nghiệp cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong quản lý, vận hành; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững.
Tóm lại, để vượt qua thời kỳ khó khăn với những thách thức lớn từ trong ra ngoài, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý cần phải xác định một mục tiêu chung, một chiến lược thống nhất để có thể trong thời gian ngắn nhất đi đến kết quả tốt nhất.
Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã rất nỗ lực để vừa hạ lãi suất vừa kiểm soát lạm phát theo mục tiêu do Quốc Hội đề ra, do đó doanh nghiệp có trách nhiệm phải tự lực tự cường, nâng cao năng lực hấp thụ và sử dụng vốn hiệu quả, cũng như chứng minh được khả năng hoàn trả trong thời hạn cho phép.
Cuối cùng, nền tảng của một chu trình vốn hiệu quả nằm ở cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người vay và người cho vay, tạo dựng niềm tin lẫn nhau và được xây dựng trên cơ sở vì lợi ích của cộng đồng./.