TS.KTS. Trương Văn Quảng: "Quảng Ninh vươn tới hình mẫu tăng trưởng xanh nhờ khát vọng và nỗ lực kiến tạo, phát triển du lịch đẳng cấp"
Nhiều năm liên tiếp dẫn đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số - năm 2025 dự kiến đạt 11,89%, đứng đầu cả nước; GRDP bình quân đầu người vượt 10.402 USD - cao nhất khu vực phía Bắc; Quảng Ninh không ngừng khẳng định vị thế là một hình mẫu phát triển tiêu biểu của Việt Nam.
Từ nền kinh tế “nâu” phụ thuộc khai thác than, tỉnh từng bước tái cấu trúc không gian và mô hình tăng trưởng theo hướng “xanh - thông minh - bền vững”, lấy thiên nhiên, con người và văn hóa làm trụ cột, đồng thời đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng, quy hoạch và chuyển đổi số.
Quảng Ninh sở hữu “kho tàng” giàu có về tài nguyên, thiên nhiên và di sản, nhưng không thể phủ nhận được sức mạnh nội lực, tư duy đổi mới, quyết tâm hành động và tinh thần dám nghĩ - dám làm của bộ máy lãnh đạo tỉnh, lan tỏa sâu rộng tới cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Trong giai đoạn phát triển mới, Quảng Ninh quyết tâm hiện thực hoá mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc trung ương trước năm 2030, là tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, vùng đô thị lớn mang tầm khu vực và quốc tế; một trong những đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia với động lực tăng trưởng chính là dịch vụ, du lịch, đổi mới sáng tạo; có cơ sở kinh tế vững chắc, sức cạnh tranh cao; người dân có mức thu nhập tương đương các nước phát triển; phát triển kinh tế hài hòa giữa các khu vực đô thị và nông thôn; đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh.
Trên hành trình phát triển mới, Quảng Ninh tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức: Bài toán bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, đảm bảo khai thác tài nguyên không làm tổn thương thiên nhiên, di sản.
Con đường tăng trưởng xanh mà Quảng Ninh lựa chọn không chỉ là bài toán nội tại của tỉnh mà còn mang giá trị tham chiếu quốc gia, trở thành hình mẫu về cách dung hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo tồn thiên nhiên và nâng tầm giá trị bền vững. Trong cuộc trò chuyện với Reatimes, TS.KTS. Trương Văn Quảng, Phó Tổng Thư ký Hội Quy hoạch phát triển Đô thị Việt Nam, đã phân tích và hệ thống những lợi thế, thành tựu mà Quảng Ninh đã đạt được trong quá trình phát triển đô thị và du lịch. Đồng thời, chỉ ra những thách thức cốt lõi và hướng đi dài hạn cho Quảng Ninh trên hành trình tăng trưởng xanh - số, hướng tới kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
Chuyên gia tin tưởng, nếu tiếp tục giữ vững "ngọn lửa" quyết tâm và tinh thần đổi mới, Quảng Ninh sẽ không chỉ duy trì vai trò hình mẫu phát triển, mà còn khẳng định vị thế tiên phong trong việc nhận diện, ứng phó và giải quyết hiệu quả những bài toán về phát triển bền vững của thời đại.
- Thưa TS.KTS. Trương Văn Quảng, ông đánh giá đâu là những lợi thế của tỉnh Quảng Ninh trong việc chuyển đổi tăng trưởng kinh tế từ "nâu" sang "xanh", với du lịch là mũi nhọn, định hình chiến lược phát triển đa sắc, đa trải nghiệm, cao cấp và khai thác quanh năm?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Quảng Ninh sở hữu kho báu tài nguyên thiên nhiên rất đặc biệt, được ví như một “Việt Nam thu nhỏ” với địa hình đa dạng từ biển đảo, đồng bằng, trung du và miền núi. Trong đó, hai kho tàng quý giá đã được UNESCO công nhận và vang danh thế giới là di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long; di sản văn hóa Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc. Ngoài ra, Quảng Ninh còn có vịnh Bái Tử Long, Vườn quốc gia Bái Tử Long, quần đảo Cô Tô cùng hơn 600 di tích, di sản, thắng cảnh khác.
Nếu Hạ Long nổi bật với các khối núi đá thì vịnh Bái Tử Long là núi đất, trải dài từ Hạ Long, Cẩm Phả đến Vân Đồn. Đi dọc đường bao biển của Quảng Ninh, có thể chiêm ngưỡng cảnh quan cực kỳ ấn tượng chạy dọc hai vịnh kỳ quan này. Trong khi đó, di sản văn hóa Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc ghi dấu ấn với không gian tôn giáo linh thiêng giao hòa giữa thiên nhiên nguyên sơ và tĩnh tại. Tại đây, giá trị toàn cầu lan tỏa từ tư tưởng cốt lõi “Tam hòa” trong Phật giáo Trúc Lâm do Vua Trần Nhân Tông sáng lập vào thế kỷ XIII: Hòa giải - Hòa hợp - Hòa bình.
Những lợi thế sẵn có cùng sự tinh thần quyết liệt chuyển đổi từ “nâu sang xanh”, coi du lịch là ngành mũi nhọn đã tạo nên một Quảng Ninh đa sắc, đa trải nghiệm. (Ảnh minh hoạ)
Bên cạnh đó, Quảng Ninh còn sở hữu nền văn hóa bản địa phong phú của người Dao, Sán Dìu, Tày, Sán Chỉ… thể hiện qua những làn điệu dân ca, phong tục, lễ hội truyền thống, trang phục, ẩm thực… Mặt khác, với địa hình, địa thế đa dạng, Quảng Ninh vừa có nguồn dược liệu quý như quế, hồi, trà hoa vàng… vừa có nguồn hải sản dồi dào, chất lượng.
Những lợi thế sẵn có cùng sự tinh thần quyết liệt chuyển đổi từ “nâu sang xanh”, coi du lịch là ngành mũi nhọn đã tạo nên một Quảng Ninh đa sắc, đa trải nghiệm từ du lịch biển - đảo - vịnh, du lịch miền biên viễn, du lịch tâm linh, du lịch văn hóa - cộng đồng, du lịch - nghỉ dưỡng cao cấp, chuỗi sự kiện, lễ hội và chương trình sôi động diễn ra quanh năm.
Trong đó, có những sản phẩm du lịch đặc trưng, độc đáo, giàu tính bản địa mà chỉ Quảng Ninh mới có. Đây cũng là hướng đi cần được đẩy mạnh để Quảng Ninh thực sự hấp dẫn và khác biệt so với các điểm du lịch trong nước như Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc hay điểm đến quốc tế như Phuket (Thái Lan), Sentosa (Singapore), Bali (Indonesia) hay Jeju (Hàn Quốc)...
Địa phương cũng đã có nhiều công trình tạo điểm nhấn như Bảo tàng Quảng Ninh; Cung Quy hoạch, Hội chợ, Triển lãm và Văn hóa tỉnh; quảng trường biển, Sun World, các cây cầu… và trong quy hoạch tương lai sẽ tiếp tục xuất hiện thêm các biểu tượng mới, góp phần tạo nên dấu ấn và sức hấp dẫn cho ngành du lịch.
Không chỉ vậy, Quảng Ninh còn chủ động đăng cai và tổ chức nhiều sự kiện lớn mang tầm quốc gia, quốc tế như các môn thi đấu tại SEA Games, ABU Robocon, và sắp tới là Ngày Lữ hành Việt Nam 2025, qua đó tiếp tục củng cố vị thế là một trong những trung tâm tổ chức sự kiện hàng đầu khu vực miền Bắc.
Trước đây, trong một thời gian dài, Quảng Ninh phát triển sản phẩm du lịch tương đối đại trà, xen lẫn một số mô hình cao cấp. Từ sau quy hoạch giai đoạn 2021 - 2030, tỉnh đặt ra mục tiêu “đẩy mạnh du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn”.
- Ông đánh giá như thế nào về việc Quảng Ninh xác định phân khúc du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp là chủ lực để xứng tầm với tiềm năng, vừa phát huy hiệu quả tài nguyên thiên nhiên - văn hóa, vừa tạo dấu ấn riêng, đủ sức cạnh tranh với các trung tâm du lịch trong nước cũng như các điểm đến quốc tế?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Định hướng phát triển du lịch cao cấp kéo theo việc lựa chọn nhà đầu tư, phát triển các khu du lịch - nghỉ dưỡng hướng tới các mô hình xanh, bền vững và đạt chuẩn quốc tế. Đây không chỉ là câu chuyện về chất lượng hạ tầng hay dịch vụ, mà còn là yêu cầu về bản sắc trải nghiệm - yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh dài hạn của điểm đến.
Trong bối cảnh mùa cao điểm du lịch biển chỉ kéo dài vài tháng hè, trong khi nhiều bãi biển tự nhiên của Quảng Ninh có quy mô hạn chế, tỉnh đang nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm để kéo dài mùa du lịch quanh năm, cũng như tổ chức nhiều sự kiện, lễ hội; để không chỉ gia tăng về “lượng” mà còn chú trọng đến “chất”, tạo ra những trải nghiệm đủ khác biệt, đủ tinh tế và có chiều sâu.



Định hướng phát triển du lịch cao cấp đặt ra yêu cầu cao hơn cho các chủ đầu tư và dự án du lịch, nghỉ dưỡng. (Ảnh minh họa)
Thực tế cho thấy, với nhóm khách quốc tế đến từ châu Âu, Úc, Mỹ - những thị trường chi tiêu cao - không có nhiều nhu cầu về các hoạt động giải trí ồn ào, mà họ mong đợi không gian nghỉ dưỡng giàu cảm xúc, gắn với thiên nhiên và văn hóa bản địa. Khảo sát mới đây của BestPrice Travel đã chỉ ra, 70 - 80% khách quốc tế lựa chọn tàu ngủ đêm trên vịnh Hạ Long bởi sự tĩnh lặng hiếm có giữa kỳ quan, cảm giác “thoát khỏi đô thị”, cùng các trải nghiệm nhẹ nhàng như chèo kayak, tham quan hang động, trà chiều hay lớp học ẩm thực. Chính đêm yên bình trên vịnh - nơi du khách lắng nghe tiếng sóng, tiếng gió - đang trở thành dấu ấn khác biệt của Quảng Ninh mà hiếm nơi có được.
Định hướng phát triển du lịch cao cấp đã được hiện thực hóa mạnh mẽ thông qua hệ thống các khu du lịch, nghỉ dưỡng đạt chuẩn quốc tế, tập trung tại những địa bàn trọng điểm như Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí, Vân Đồn… (địa danh trước sáp nhập), thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư chất lượng trong và ngoài nước.
Quảng Ninh cũng đã tạo dấu ấn rõ nét trên bản đồ du lịch Việt Nam và khu vực với sự xuất hiện của các du thuyền hạng sang, khu nghỉ dưỡng 6 sao trên vịnh Hạ Long, thậm chí có doanh nghiệp đưa thủy phi cơ vào khai thác. Ở phân khúc nghỉ dưỡng núi - khoáng nóng, dự án ở Quang Hanh được đầu tư theo tiêu chuẩn Nhật Bản tiếp tục mở rộng biên độ trải nghiệm cao cấp cho du khách.
Quảng Ninh xác định rõ ba trụ cột phát triển là thiên nhiên, con người và văn hóa, từ đó mới xây dựng hệ thống sản phẩm du lịch. Những năm qua, ngành du lịch Quảng Ninh hình thành những tuyến du lịch khép kín trong tỉnh và kết nối liên vùng. Chẳng hạn, tour du lịch “Một hành trình - hai di sản” mang đến 72 giờ trải nghiệm trọn vẹn các dịch vụ cao cấp từ Yên Tử đến vịnh Hạ Long, từ núi thiêng đến vịnh ngọc. Bên cạnh đó, trong năm 2025, tỉnh phối hợp với Hải Phòng xây dựng các tuyến du lịch liên vùng như Hạ Long - Cát Bà, Yên Tử - Côn Sơn - Kiếp Bạc, Tuần Châu - Đồ Sơn.
Theo kế hoạch, năm 2025 Quảng Ninh dự kiến đón trên 21,2 triệu lượt khách, trong đó có 4,5 triệu lượt khách quốc tế, doanh thu du lịch đạt khoảng 57.000 tỷ đồng, đóng góp trên 10% GRDP của tỉnh - những con số cho thấy chiến lược phát triển du lịch cao cấp, khác biệt và bền vững đang dần phát huy hiệu quả.
- Nhìn lại chặng đường phát triển của Quảng Ninh, có thể thấy, từ tư duy quy hoạch, đầu tư hạ tầng đến cải cách thể chế - là những yếu tố mang tính quyết định giúp tỉnh không chỉ bứt phá nhanh mà còn giữ được nhịp điệu phát triển bền vững và có chiều sâu trong nhiều năm qua?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Trước tháng 7/2025, Quảng Ninh là địa phương duy nhất của cả nước có tới bốn thành phố: Hạ Long, Uông Bí, Cẩm Phả và Móng Cái. Chưa kể, các đô thị vệ tinh, các thị xã như Đông Triều, Quảng Yên… đều đang chuẩn bị lên thành phố. Sau khi sắp xếp lại theo mô hình chính quyền hai cấp và bước vào nhiệm kỳ 2025 - 2030, tỉnh hướng tới trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trước năm 2030, là một trong những tỉnh tiên phong của cả nước; lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chuyển đổi xanh là động lực chính cho tăng trưởng.
“Kim chỉ nam” cho chiến lược phát triển dài hạn của Quảng Ninh được xác định là “một tâm - hai tuyến đa chiều - hai mũi đột phá”. Trong đó lấy tâm là Hạ Long - trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế và văn hóa. Tuyến phía Tây hướng về Đông Triều, đồng bằng sông Hồng và Hà Nội, phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh. Tuyến phía đông hướng đến Móng Cái và Đông Bắc Á, phát triển chuỗi đô thị sinh thái - dịch vụ, thương mại, du lịch tổng hợp cao cấp, nông nghiệp sạch - công nghệ cao và kinh tế biển. Thông qua hai tuyến này, tăng cường phối hợp liên kết ở cấp quốc gia và hợp tác cạnh tranh ở cấp quốc tế. Hai mũi đột phá là đặc khu Vân Đồn và Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái.
Để lan tỏa được tiềm năng và phát triển đột phá, không thể thiếu “đôi cánh” hạ tầng giao thông. Quảng Ninh đầu tư rất nhiều vào hạ tầng để tăng cường kết nối thuận lợi trong nước và quốc tế, có đầy đủ các loại hình từ Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái, cửa ngõ thông thương với Trung Quốc, đến 3 cảng tàu khách quốc tế là Tuần Châu, Hạ Long, Ao Tiên.
Để lan tỏa được tiềm năng và phát triển đột phá, không thể thiếu “đôi cánh” hạ tầng giao thông. (Ảnh minh hoạ)
Đối với hạ tầng giao thông chiến lược, Quảng Ninh đã và đang đề xuất đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, triển khai hai tuyến đường sắt quan trọng gồm tuyến Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái và tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội - Quảng Ninh. Thời gian tới, tỉnh cũng định hướng tái khởi động nghiên cứu dự án hầm vượt biển kết nối Hòn Gai - Bãi Cháy.
Đóng vai trò sợi dây kết nối liên vùng duyên hải, tuyến đường bộ ven biển dài 550km đi qua 5 tỉnh/thành Quảng Ninh, Hải Phòng, Hưng Yên, Ninh Bình, Thanh Hóa cũng đang được hoàn thiện nhanh chóng.
Quảng Ninh đang lên kế hoạch triển khai dự án Cảng Con Ong - Hòn Nét thuộc khu bến Cẩm Phả, qua đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng không gian kinh tế biển Quảng Ninh – Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế biển của khu vực, đóng vai trò động lực phát triển đối với vùng đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, việc đề xuất đưa Cảng biển Hải Hà vào các quy hoạch quốc gia và danh mục các dự án ưu tiên đầu tư trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XIV cho thấy định hướng rõ ràng trong việc nâng cao năng lực hạ tầng cảng biển và logistics.
Tháng 4/2025, Ủy ban liên hợp Hợp tác đường sắt Việt - Trung được thành lập, đưa dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng vào thảo luận sâu. Trong tương lai, nếu tuyến đường sắt này được triển khai và nối dài về phía Quảng Ninh, khu vực sẽ có thêm lợi thế kết nối quan trọng, góp phần nâng cao vai trò cửa ngõ của Vùng kinh tế Bắc Bộ và tăng cường kết nối giao thương giữa ASEAN với Trung Quốc
Với quy hoạch rõ ràng và hệ thống hạ tầng ngày càng hoàn thiện, Quảng Ninh tiếp tục cho thấy sự chủ động trong việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược. Xuyên suốt các giai đoạn phát triển, tỉnh kiên định quan điểm “quy hoạch phải đi trước một bước”, coi đây là nền tảng và bàn đạp cho tăng trưởng dài hạn. Chính cách tiếp cận này đã góp phần lý giải vì sao trong nhiều năm liền, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2025 được dự báo ở mức cao nhất cả nước, trong khi GRDP bình quân đầu người đạt trên 10.402 USD, đứng đầu khu vực phía Bắc.
- Triết lý “hạ tầng đi trước một bước” và mô hình chính quyền kiến tạo của Quảng Ninh đã được phân tích và đưa ra làm hình mẫu phát triển trong thập kỷ qua. Vậy trong nhiệm kỳ mới, Quảng Ninh sẽ kế thừa và phát huy những yếu tố cốt lõi nào để tiếp tục mở rộng “đường băng” cho doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo kỷ luật phát triển, chất lượng dự án và sự đồng thuận xã hội?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Quảng Ninh là tỉnh có nhiều lợi thế, nhưng yếu tố quyết định là sự quyết liệt của hệ thống chính trị và sự đồng thuận, đồng hành của doanh nghiệp, người dân. Như chúng ta đã thấy, việc phát triển sân bay trong bối cảnh ngành hàng không gặp nhiều khó khăn là nhiệm vụ được cho là bất khả thi, nhưng Quảng Ninh vẫn làm được, cho thấy quyết tâm rất lớn.
Các khu kinh tế, khu công nghiệp lớn ở Móng Cái, Vân Đồn… (cũ) đều mời tư vấn quốc tế để bảo đảm chất lượng quy hoạch. Từ năm 2012, khi Luật Quy hoạch còn chưa được ban hành, Quảng Ninh đã thuê đơn vị hàng đầu của Mỹ để tư vấn lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể nói, Quảng Ninh là một địa phương mà bộ máy chính quyền rất cầu thị, thường xuyên tổ chức các hội thảo, mời các đơn vị tư vấn trong nước và quốc tế tham gia. Bản thân tôi từng dự rất nhiều hội thảo như vậy: Từ quy hoạch phát triển toàn tỉnh tới từng đô thị như Cẩm Phả, Uông Bí, Móng Cái; phát triển kinh tế biển, khai thác các vùng có tính chất đặc thù; bảo tồn và phát huy giá trị di sản…
Tính riêng giai đoạn 2011 - 2015, lãnh đạo tỉnh đã tổ chức tới 200 cuộc họp, tọa đàm ở Hà Nội để thảo luận về cách thức phát triển của Quảng Ninh, từ vấn đề chung đến những tuyến cụ thể của kinh tế, văn hoá, xã hội…
Về chính sách thu hút nhân tài, Quảng Ninh trước nay cũng là một địa phương đầu tư tốt cho giáo dục, y tế, và có chính sách hấp dẫn dành cho nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết số 57/2025/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về chính sách thu hút, hỗ trợ nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2025 - 2030 có hiệu lực từ ngày 1/9/2025 đến hết ngày 31/12/2030. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến nhân lực làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, công nghệ môi trường, chuyển đổi số, thể hiện rõ định hướng phát triển xanh, số, bền vững trong giai đoạn tới của Quảng Ninh.
Từ đó, phải kể đến một thế mạnh khác của Quảng Ninh là luôn đi đầu trong chuyển đổi số, minh chứng qua các nền tảng chính quyền điện tử, công dân số phát triển rất mạnh và trở thành một trong những mô hình tốt nhất cả nước. Chuyển đổi số thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, giúp doanh nghiệp và nhà đầu tư làm thủ tục nhanh, gọn, minh bạch. Mọi quy trình đều thông suốt, rõ ràng, tạo môi trường rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời hình thành “dân trí số” - tức thói quen ứng dụng công nghệ trong đời sống, ứng xử văn minh, thân thiện với du khách và nhà đầu tư.
Môi trường đầu tư của Quảng Ninh cởi mở, thông thoáng nhưng cũng hết sức khoa học, chặt chẽ. Trong quá trình xây dựng và vận hành các dự án đô thị cũng như khu du lịch - nghỉ dưỡng, luôn có sự thanh tra, kiểm tra của địa phương. Ngay từ khâu lựa chọn nhà đầu tư cũng đã có những yêu cầu rất chặt chẽ. Quảng Ninh có kinh nghiệm lâu năm trong việc này, đã có những trường hợp nhà đầu tư làm không tốt bị tỉnh loại ra khỏi danh sách đối tác, không mời ở các dự án sau nữa.
Chẳng hạn như vào năm 2014, tuyến quốc lộ 18 (đoạn Uông Bí - Hạ Long) chỉ 1 tuần sau khánh thành đã có hiện tượng xuống cấp, lún, nứt. Từ đó đến nay, tất cả các dự án quan trọng đều chọn những chủ đầu tư có uy tín, giàu kinh nghiệm, đủ độ tin cậy. Những doanh nghiệp nhỏ của tỉnh vẫn có “đất diễn” riêng, nhưng các dự án mang ý nghĩa tạo “cú hích” cho tỉnh đều phải “chọn mặt gửi vàng”.
- Vậy đúc kết lại, đâu là "công thức" đưa Quảng Ninh trở thành hình mẫu tăng trưởng xanh, bền vững cho cả nước, thưa chuyên gia?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Ở góc độ phát triển bền vững, hầu hết các địa phương hiện nay đều hướng tới mô hình tăng trưởng xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, theo tôi, Quảng Ninh có thể xem là một trong những hình mẫu tiêu biểu mà các địa phương khác có thể tham khảo. Trước hết nằm ở sự quyết tâm của lãnh đạo và cả hệ thống chính trị, cùng sự đồng thuận của người dân. Khi đã xác định chiến lược, tỉnh kiên trì thực hiện các nhiệm vụ đột phá theo định hướng chung của quốc gia: Đột phá về hạ tầng; đột phá về cơ chế, chính sách; đột phá về nguồn lực.
Hạ tầng được đầu tư đồng bộ từ đường cao tốc, đường ven biển, cảng biển, sân bay, hạ tầng đô thị đến kết nối liên vùng. Cơ chế, chính sách thông thoáng giúp tỉnh thu hút được các nguồn lực đầu tư lớn, trong đó có các tập đoàn tư nhân vào những dự án mang tính bứt phá như Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn. Đây là một bước đi rất táo bạo, thể hiện rõ sự quyết liệt và tư duy đổi mới để tạo đà cho thu hút đầu tư cũng như thu hút khách du lịch, dịch chuyển mạnh mẽ tăng trưởng từ "nâu sang xanh". Quảng Ninh được đánh giá cao bởi tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nếu thiếu đi sự mạnh dạn và quyết liệt ấy, tiềm năng và tài nguyên dù giàu có cỡ nào cũng không thể tạo nên sự khác biệt lớn trong quá trình phát triển của tỉnh.
Có thể khẳng định, Quảng Ninh đang vươn tới hình mẫu tăng trưởng xanh nhờ khát vọng và nỗ lực kiến tạo, phát triển du lịch đẳng cấp.
- Quảng Ninh đang đứng trước bài toán lớn khi các dự án đô thị, du lịch lớn đều nằm ven biển, trong khi di sản và thiên nhiên có sức “chịu tải” hữu hạn. Ông nhìn nhận như thế nào về những lằn ranh mà Quảng Ninh vạch ra để bảo tồn cảnh quan, môi trường và giá trị di sản trong quá trình phát triển du lịch?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Bất kỳ sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ nào cũng đi kèm với những thách thức lớn. Với định hướng đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, Quảng Ninh đã phát triển đa dạng và đột phá các nhiều loại hình, nổi bật là du lịch biển đảo, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh và kể cả ngành công nghiệp văn hoá. Như chúng ta đã thấy, Quảng Ninh rất “chịu chi” trong việc triển khai và đăng cai các hoạt động văn hoá, lễ hội, thể thao… thu hút đông đảo du khách.
Trong quá trình đó, nhiều khu vực phải lấn biển để xây dựng đô thị và các tổ hợp du lịch - nghỉ dưỡng, đặc biệt là tại Hạ Long, Cẩm Phả và Vân Đồn đã có những dự án tiến biển cách đây từ 10 - 15 năm. Quá trình này có nguy cơ ảnh hưởng đến cảnh quan và vùng đệm di sản, nhưng trước đây chưa được xem trọng đúng mức. Trước những cảnh báo, tỉnh Quảng Ninh đã nhìn nhận rõ hơn, khoa học hơn về vấn đề này, có sự rà soát và kiểm soát chặt chẽ hơn.
Các đô thị phát triển nhất của Quảng Ninh đều nằm ven biển, điều này vô hình trung tạo ra áp lực ngày càng lớn cho di sản và thiên nhiên. Dĩ nhiên rằng, việc xây dựng hạ tầng, mở rộng không gian đô thị hay phát triển công nghiệp ở một mức độ nào đó đều tác động đến cảnh quan, môi trường, đặc biệt là rừng già, rừng ngập mặn, vịnh biển.
Do đó, trong quá trình phát triển cần đặc biệt chú trọng và tính toán đến yếu tố môi trường. Hiện nay, công nghệ triển khai đô thị tiến biển tại Việt Nam đã hiện đại và tối ưu hơn rất nhiều, hiệu quả hơn trong việc bảo tồn, tôn tạo và tái sinh thiên nhiên. Chẳng hạn như công nghệ K-DPM giúp tận dụng bùn nạo vét thành vật liệu nền, san lấp ướt, tách dầu - chống rò rỉ, thiết bị giảm ồn - giảm rung, hệ thống quan trắc môi trường 24/7…, đều là những công nghệ mà Quảng Ninh có thể kế thừa, học hỏi.
Đối với di sản, các yêu cầu bảo tồn được thực hiện rất nghiêm ngặt theo quy định quốc tế của UNESCO. Khi ký cam kết công nhận di sản, Việt Nam đã phải trình bày đầy đủ giải pháp bảo vệ, bảo tồn di sản. UNESCO kiểm tra và giám sát định kỳ, đồng thời có Đoàn Giám sát Phản hồi của Trung tâm Di sản thế giới và Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá, tư vấn về các lĩnh vực: Quản trị di sản, cơ cấu tổ chức quản lý, công tác bảo tồn và ranh giới di sản.
Trong quy hoạch và kế hoạch phát triển, Quảng Ninh xác định rõ khu vực nào được phép đầu tư, khu vực nào nằm trong vùng lõi di sản tuyệt đối không được can thiệp, cũng như phạm vi vùng đệm có thể xem xét ở mức độ nào. Điều này áp dụng không chỉ ở Hạ Long mà cả tại Yên Tử, nơi có giá trị cảnh quan, tự nhiên và tâm linh đặc biệt. Mọi dự án trong khu vực đều phải đánh giá tác động kỹ lưỡng, xem xét nguy cơ ảnh hưởng đến di tích, cảnh quan, biến đổi khí hậu hay nguy cơ sạt lở trước khi được cho phép xây dựng.
Trong quy trình xây dựng và phát triển, trước hết phải có đồ án quy hoạch; và khi đã có đồ án thì chắc chắn phải ban hành các quy định quản lý, tổ chức thực hiện theo đúng đồ án đó. Tiếp theo là ban hành quy chế quản lý kiến trúc của từng khu vực, căn cứ theo Luật Kiến trúc và các yêu cầu riêng của từng vùng. Ví dụ, nếu khu vực nằm trong vùng di sản thì phải tuân thủ quy định của UNESCO hoặc Luật Di sản văn hóa.




Trong quy hoạch và kế hoạch phát triển, tỉnh xác định rõ khu vực nào được phép đầu tư, khu vực nào nằm trong vùng lõi di sản tuyệt đối không được can thiệp, cũng như phạm vi vùng đệm có thể xem xét ở mức độ nào. (Ảnh minh hoạ)
- Trong dài hạn, Quảng Ninh tiếp tục đặt mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và hướng tới mục tiêu Net Zero. Đâu là những ưu tiên chiến lược mang tính quyết định trong thời gian tới để tỉnh vừa giảm áp lực lên di sản - môi trường, vừa duy trì được sức hút của một điểm đến hàng đầu?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Quảng Ninh đang tiến tới mô hình kinh tế tuần hoàn, thì phải chú ý đến việc sử dụng, tái sử dụng và quay vòng tài nguyên, đồng thời hoàn thiện chính sách, cơ chế “kinh tế biển xanh”. Trong quá trình chuyển đổi từ “nâu” sang “xanh”, tỉnh đã đạt được nhiều kết quả đáng biểu dương, song vẫn tồn tại những vấn đề về môi trường cần xử lý trong quá trình đẩy mạnh phát triển đô thị và ngành du lịch.
Chẳng hạn vào mùa hè, khu vực ven biển thường rất đông du khách. Trong khi đó, bãi biển của Quảng Ninh không trải rộng và dài giống như Sầm Sơn, Cửa Lò hay Nha Trang, trong đó có nhiều bãi là nhân tạo. Các bãi tự nhiên đa phần ở ngoài đảo, mức độ khai thác vừa phải; còn khu vực trung tâm thì ít bãi tắm nhưng mật độ người rất lớn. Dù cảnh quan đẹp, nhưng không gian bãi biển lại hạn chế, đây cũng là một trong những hạn chế của Quảng Ninh khi khai thác du lịch biển.
Do đó, để phát triển du lịch bốn mùa, tỉnh đã triển khai các tuyến phố kinh tế đêm, kết hợp tổ chức sự kiện, các hoạt động du lịch đa dạng. Điều này rất tốt, tuy nhiên, trong quá trình làm, cần có giải pháp tốt hơn để bảo vệ môi trường, gìn giữ di sản và thiên nhiên.
Hiện nay, Quảng Ninh đang kiến tạo vịnh Cửa Lục thành trung tâm đô thị mới để giảm tải cho vùng lõi Hạ Long. Nếu quy hoạch tốt, khu vực này sẽ trở thành hạt nhân mới, giải tỏa rất nhiều vấn đề cho các vùng đã phát triển lâu đời.



Có đến 6 cây cầu kết nối, Vịnh Cửa Lục được quy hoạch phát triển trở thành "vịnh Sydney bên bờ vịnh Hạ Long". (Ảnh minh hoạ)
Không chỉ đơn thuần chuyển đổi từ “nâu” sang “xanh”, Quảng Ninh cũng đã có kế hoạch và lộ trình riêng để hướng tới mục tiêu Net Zero. Từ chính quyền đến doanh nghiệp, nhiều mô hình và sáng kiến đã được triển khai như: Tour Net Zero và “hộ chiếu xanh”; khuyến khích sử dụng phương tiện dùng nhiên liệu xanh, đặc biệt là các phương tiện trên vịnh; giảm thiểu rác thải nhựa, đồ dùng một lần; tận dụng tối đa nguồn lực địa phương để sản xuất vật dụng từ vật liệu thân thiện, tự nhiên, có thể phân huỷ.
Quảng Ninh hiện có diện tích rừng tự nhiên là 123.730ha, diện tích rừng trồng đã thành rừng là 216.422ha, hiện tỉnh hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính thông qua kiểm kê khí nhà kính và thúc đẩy phát triển thị trường Carbon theo lộ trình chung được Chính phủ xây dựng.
Là “thủ phủ” than của miền Bắc, các nhà máy nhiệt điện của Quảng Ninh vẫn đang hoạt động và đóng vai trò cung cấp năng lượng chủ chốt. Việc chuyển đổi sang năng lượng sạch cần hai yếu tố chính là công nghệ và lộ trình, nhất là khi tài nguyên than đang dần cạn. Do đó, Quảng Ninh cần có kế hoạch chuyển đổi quyết liệt về nhiên liệu và công nghệ, đẩy mạnh phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo….
Điện khí LNG cũng là một trong các hướng đi mà Quảng Ninh có thể áp dụng. Hiện, dự án Nhà máy điện khí LNG Quảng Ninh có quy mô gần 110ha đang được triển khai, kỳ vọng sẽ đánh dấu bước tiến lớn trong quá trình tăng trưởng xanh của tỉnh.
- Còn ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu thì sao, thưa chuyên gia?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Quảng Ninh là địa phương thuộc khu vực nhạy cảm về biến đổi khí hậu và dễ tổn thương cao đối với nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới... Khu vực ven biển đối mặt với bão mạnh, nước dâng, các hiện tượng thời tiết cực đoan; còn miền núi lại dễ xảy ra lũ quét, sạt lở. Đây đều là những yếu tố rất khó đoán định. Do đó, Quảng Ninh cần xây dựng kịch bản mô phỏng tác động trong 100 năm tới và các biện pháp ứng.
Trong ngắn hạn 1 - 5 năm, ưu tiên những việc cần làm ngay như tập trung đầu tư hạ tầng phòng chống thiên tai, cải thiện môi trường, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và nâng cao nhận thức cộng đồng. Trong trung hạn 5 - 15 năm, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới công nghệ, phát triển năng lượng sạch, nâng cấp đê điều và hạ tầng ven sông, biển, lồng ghép chính sách giảm nhẹ khí hậu vào quy hoạch phát triển. Ở tầm nhìn dài hạn 15 - 30 năm, hướng tới chuyển đổi năng lượng, phát triển vật liệu thân thiện môi trường, hạ tầng bền vững, áp dụng trí tuệ nhân tạo trong dự báo và quản lý, đồng thời thiết lập cơ chế tài chính dài hạn cho các hành động khí hậu.
Cùng với đó, Quảng Ninh cần hoàn thành bản đồ cảnh báo nguy cơ ở từng khu vực, xác định rõ vùng nào rủi ro lớn, vùng nào cần hạn chế phát triển. Những thông tin này được tích hợp vào quy hoạch tỉnh và quy hoạch nông thôn mới để làm cơ sở xem xét, lựa chọn khu vực không xây dựng hoặc hạn chế phát triển, đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp.
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về quy hoạch hiện nay cũng đã quy định rất rõ nội dung liên quan đến thích ứng biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, để chủ động ứng phó trước những diễn biến thời tiết bất thường vẫn cần hệ thống giải pháp chủ động hơn. Không thể phòng chống tuyệt đối, bởi ngay cả các quốc gia phát triển như Mỹ vẫn chịu thiệt hại trước thiên tai. Điều quan trọng là giảm thiểu rủi ro và thiệt hại.
Trước hết, tỉnh đã chủ động đảm bảo nguồn lực tài chính mạnh mẽ cho lĩnh vực môi trường. Thứ hai, Quảng Ninh đầu tư mạnh vào hạ tầng kỹ thuật và công nghệ với hệ thống xử lý nước thải tập trung; mạng lưới quan trắc môi trường được lắp đặt. Công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực môi trường cũng được đẩy mạnh.
Thực tế, là một trong những địa phương tiên phong thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, Quảng Ninh đã nhìn nhận và có giải pháp kiểm soát, đặc biệt liên quan đến lấn biển, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các dự án có nguy cơ ảnh hưởng đến cảnh quan biển đều được đánh giá kỹ lưỡng để có giải pháp giảm thiểu tác động. Trong du lịch, sau thời kỳ phát triển đại trà, tỉnh đang chuyển hướng sang mô hình du lịch chất lượng cao để giảm áp lực lên môi trường và phát huy tối đa giá trị.
Kết hợp tất cả những vấn đề kể trên, có thể thấy Quảng Ninh đã, đang làm được rất nhiều việc và cũng có rất nhiều việc cần phải làm.
- Hướng tới mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc trung ương trước năm 2030, theo ông, Quảng Ninh cần làm gì để thu hẹp chênh lệch phát triển giữa vùng biển và miền núi, hải đảo một cách thực chất?
TS.KTS. Trương Văn Quảng: Quảng Ninh có sự chênh lệch khá lớn giữa đô thị ven biển và khu vực miền núi, hải đảo. Vấn đề này không dễ giải quyết, vì mỗi vùng có đặc điểm khác nhau. Để thu hẹp khoảng cách phát triển, phải dựa vào cơ chế chính sách, kết nối hạ tầng, và nâng cao chất lượng dịch vụ cơ bản cho người dân.
Điều quan trọng là người dân ở vùng khó khăn cũng phải tiếp cận được chất lượng dịch vụ tương đương về y tế, giáo dục, hạ tầng xã hội. Đây cũng là hướng đi phù hợp với quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau” mà Chính phủ đang kêu gọi.
Ví dụ như dịch vụ y tế, trước đây các xã, thị trấn đều có trạm y tế nhỏ, nhưng hiện nay Chính phủ chủ trương phát triển các trung tâm y tế lớn hơn, tăng chất lượng khám chữa bệnh. Giáo dục cũng vậy, thay vì duy trì trường lớp rải rác, đang có xu hướng gom lại để đầu tư tốt hơn, xây các trường dọc biên giới hoặc vùng đặc biệt khó khăn, bảo đảm học sinh được học trong môi trường đầy đủ điều kiện.
Rút ngắn chênh lệch còn nằm ở chất lượng dịch vụ công - yếu tố quyết định mức sống và cơ hội tiếp cận của người dân. Các yếu tố khác như quy mô dân số giữa đô thị và nông thôn thì không thể can thiệp nhiều, nhưng việc nâng chất lượng dịch vụ, tạo việc làm, giảm thất nghiệp, hay kết nối hạ tầng là hoàn toàn có thể làm được.
Chuyển đổi số cũng góp phần thu hẹp khoảng cách này. Nhờ mạng lưới số hóa, người dân vùng núi vẫn có thể kết nối với bệnh viện ở vùng trung tâm để hội chẩn, khám từ xa. Chuyển đổi số theo Nghị quyết Bộ Chính trị giúp mọi người dân, dù ở vùng nào, đều tiếp cận dịch vụ công bằng như nhau.
Song song, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tiếp tục được đầu tư đồng bộ. Trong khi đô thị phát triển giao thông và các công trình lớn, thì khu vực nông thôn được nâng cấp theo chương trình nông thôn mới gồm trường học, y tế, thương mại, chợ trung tâm xã, dịch vụ công… Ở nhiều huyện miền núi, người dân còn có thể phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái gắn với văn hóa bản địa - một lợi thế mà vùng ven biển không có.
Với "ngọn lửa" quyết tâm và khát vọng mạnh mẽ, tôi tin rằng Quảng Ninh sẽ khẳng định được vị thế và phát huy được tiềm năng, tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong trong việc giải quyết các thách thức về tăng trưởng bền vững và phát triển toàn diện.
- Có thể thấy, Quảng Ninh đang khẳng định vị thế đầu tàu khu vực phía Bắc với lợi thế địa lý chiến lược, hạ tầng hiện đại và môi trường đầu tư thông thoáng. Tỉnh đã triển khai đồng bộ các chính sách phát triển và cải cách thể chế theo hướng kiến tạo, duy trì vị trí dẫn đầu các chỉ số năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, Quảng Ninh đang phát triển du lịch theo hướng cao cấp, bền vững, đồng thời gắn kết với mô hình tăng trưởng xanh, chú trọng bảo tồn tài nguyên thiên nhiên như Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long... Sự đồng thuận và đồng hành của các doanh nghiệp lớn cùng với định hướng phát triển xanh - bền vững càng củng cố nền tảng để tỉnh bứt phá, trở thành hình mẫu về phát triển năng động, sáng tạo, vừa tạo ra giá trị kinh tế cao, vừa bảo vệ môi trường và nâng tầm vị thế Quảng Ninh trên bản đồ du lịch và kinh tế quốc tế.
Trân trọng cảm ơn TS.KTS. Trương Văn Quảng với những góc nhìn đa chiều, sâu sắc và lan toả cảm hứng về con đường, cách thức phát triển hướng đến vị thế đầu tàu tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh, bền vững của tỉnh Quảng Ninh với du lịch là trục xoay chiến lược!


