Aa

Tư duy mới và mở về "doanh nghiệp dân tộc"

An Vũ
An Vũ pvhongvu@gmail.com
Thứ Năm, 09/10/2025 - 15:20

Trên thực tế, khái niệm "doanh nghiệp dân tộc" đã xuất hiện cách đây hơn hai thập kỷ, nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng, đặc biệt là trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại Hội thảo "Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng", các chuyên gia đã "mổ xẻ" từ nhiều góc độ để nhận diện và định vị cụ thể hơn về vai trò, tầm vóc của doanh nghiệp dân tộc.

Thiếu vắng một khái niệm về "doanh nghiệp dân tộc"

Ngày 8/10, dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES) tổ chức Hội thảo "Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng", nhân dịp kỷ niệm 21 năm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10/2004 - 13/10/2025).

Tại Hội thảo, các chuyên gia đều đồng tình rằng, để đạt được các mục tiêu then chốt của kỷ nguyên mới, không thể thiếu một lực lượng doanh nghiệp dân tộc hùng mạnh, có lý tưởng lớn, tinh thần phụng sự cao cả, gắn kết lợi ích doanh nghiệp với trách nhiệm cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Doanh nghiệp dân tộc là nền tảng quan trọng của nền kinh tế, không chỉ góp phần thúc đẩy tăng trưởng mà còn đại diện cho bản sắc văn hóa và niềm tự hào dân tộc. 

Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đặt ra yêu cầu cần nhận diện và định vị cụ thể hơn về vai trò, tầm vóc của doanh nghiệp dân tộc, từ đó đưa ra những giải pháp đột phá, kiến tạo "đường băng" để đội ngũ doanh nghiệp dân tộc phát huy sức mạnh, đóng góp hiệu quả cho năng lực tự cường và vị thế quốc tế của đất nước.

Tư duy mới và mở về "doanh nghiệp dân tộc"- Ảnh 1.

Toàn cảnh Hội thảo "Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng".

Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Lê Xuân Sang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới cho biết, khái niệm "doanh nghiệp dân tộc" đã được đề xuất từ hơn 20 năm trước nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa hay bộ tiêu chí chuẩn mực rõ ràng. Sự thiếu vắng này tạo ra nhiều khó khăn và đòi hỏi cần có thêm các nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ.

Trong khi đó, nhìn vào bối cảnh toàn cầu đang phải đối mặt với "tứ bất" - bất ổn, bất định, bất an, bất trắc, chuyên gia nhấn mạnh về sự cần thiết phải có tính tự chủ cao của mỗi quốc gia trong tầm nhìn hoạt động của doanh nhân, doanh nghiệp.

Nhìn nhận từ góc độ chính sách pháp luật, GS. TS. Lê Hồng Hạnh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đặt câu hỏi: "Doanh nghiệp dân tộc trong hệ thống pháp lý, trong nền kinh tế của chúng ta là ai?". Ông nhấn mạnh rằng, nếu không định hình rõ vị trí và tư cách chủ thể của đối tượng này, việc xây dựng chính sách sẽ gặp bế tắc. Hiện tại, không có khái niệm chuẩn "doanh nghiệp dân tộc" nào tồn tại trong các văn bản pháp lý liên quan, từ Nghị quyết 41-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW hay đến các bộ luật về doanh nghiệp và tài chính thương mại.

Chuyên gia cũng cho rằng, sự mâu thuẫn trong cách hiểu tạo ra một rào cản lớn. Có ý kiến cho rằng doanh nghiệp dân tộc phải bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi người khác lại khẳng định chỉ doanh nghiệp lớn mới xứng đáng.

GS. TS. Lê Hồng Hạnh cho rằng, một doanh nghiệp nhỏ dù tốt đến đâu cũng khó có thể là biểu tượng hoặc có vai trò dẫn dắt trong nền kinh tế; ngược lại, một doanh nghiệp lớn nhưng chỉ dựa vào vốn vay để duy trì hoạt động cũng khó thể hiện được vai trò dẫn dắt.

"Tôi đọc rất nhiều bài viết về doanh nghiệp dân tộc của các doanh nhân, các nhà khoa học… nhưng chưa kiến giải được thế nào là doanh nghiệp dân tộc. Nếu muốn phát triển doanh nghiệp dân tộc, trước tiên chúng ta cần làm rõ tư cách pháp lý của đối tượng này", GS. TS. Lê Hồng Hạnh nhận định.

Chuyên gia cũng đặt ra câu hỏi, rằng một doanh nghiệp có thương hiệu tốt, rất nổi tiếng nhưng không thể hiện được vai trò xã hội thì có được coi là doanh nghiệp dân tộc hay không?

Trước những khúc mắc còn tồn tại xoay quanh định nghĩa pháp lý về "doanh nghiệp dân tộc", GS. TS. Lê Hồng Hạnh đưa ra kiến nghị: "Nên coi doanh nghiệp dân tộc là một danh hiệu biểu tượng, tương tự các danh hiệu cao quý khác như Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Anh hùng dân tộc..., giống như chúng ta từng vinh danh các nhà tư sản dân tộc trước đây. Biểu tượng này sẽ mang dấu ấn riêng của Việt Nam và đóng vai trò quan trọng trong việc vinh danh những đóng góp thực sự cho quốc gia".

Tư duy cởi mở: Hỗ trợ "đầu ra" thay vì tranh luận "đầu vào"

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất một cách tiếp cận mới - đó là tiếp cận "đầu ra" thay vì "đầu vào". 

Theo ông, việc tranh luận "thế nào là doanh nghiệp dân tộc" sẽ khó đi đến hồi kết. Điều quan trọng hơn là hiệu quả và giá trị thực chất mà doanh nghiệp mang lại cho đất nước. Thay vì hỏi "ai được hỗ trợ", chuyên gia gợi mở nên chuyển hướng sang "ai thực hiện được theo các tiêu chí đặt ra và thực hiện có hiệu quả" thì sẽ được hỗ trợ.

Bên cạnh đó, GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang cũng chia sẻ quan điểm, trước đây, trong quá trình xây dựng một số chính sách, chúng ta đã từng vô tình đặt ra những rào cản hoặc loại bỏ các đối tác nước ngoài. Chẳng hạn, đã có trường hợp các doanh nghiệp Nga, dù có những đóng góp rất tích cực cho Việt Nam, nhưng lại gặp khó khăn. 

"Giờ đây, trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, tôi cho rằng Việt Nam cần áp dụng một tư duy cởi mở và hiệu quả hơn. Nguyên tắc nên là, bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu hoạt động và mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước, cho người dân, thì đều xứng đáng được khuyến khích và hỗ trợ", chuyên gia nhận định.

Về mặt pháp lý, để đạt được hiệu quả, chính sách phải được xây dựng dựa trên nhiệm vụ được giao và một khung thể chế minh bạch. Đặc biệt, không nên giới hạn quy mô của khái niệm "doanh nghiệp dân tộc" chỉ trong phạm vi các doanh nghiệp lớn. Việc giới hạn như vậy sẽ vô tình gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là lực lượng rất năng động và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Hơn nữa, trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế, nếu vẫn giữ cách tiếp cận cũ, chúng ta sẽ tự tạo ra bất lợi cho chính mình trong dòng chảy giao thương toàn cầu.

"Tôi cho rằng, tiêu chí cốt lõi để xác định một doanh nghiệp có xứng đáng được coi là doanh nghiệp dân tộc hay không chính là tinh thần yêu nước và hiệu quả công việc, tức là làm việc vì lợi ích chung của đất nước. Đồng thời, không nên vội vàng gắn danh hiệu, thay vào đó cần chú trọng vào việc tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Khi doanh nghiệp đạt được những kết quả đóng góp rõ rệt cho đất nước, họ sẽ tự nhiên được vinh danh và công nhận", GS. TSKH. NGND. Vũ Minh Giang nêu quan điểm.

Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, TS. Lê Xuân Sang cho hay, trên thế giới, doanh nghiệp dân tộc chia thành 2 loại: Doanh nghiệp dân tộc của quốc gia và doanh nghiệp dân tộc thiểu số.

Doanh nghiệp dân tộc lớn tạo ra sức mạnh kinh tế lớn cho quốc gia, còn doanh nghiệp dân tộc thiểu số vừa và nhỏ tạo ra sức mạnh mềm cho dân tộc. Về lâu dài, hai khối này cộng hưởng và tạo ra động lực phát triển lớn.

Khái niệm nhóm doanh nghiệp dân tộc thường được xác định dựa trên 4 tiêu chí cốt lõi. Thứ nhất là tiêu chí về sở hữu, cụ thể là tỷ lệ cổ đông thuộc dân tộc (OCD) phải chiếm trên 60%. Thứ hai là mức độ đóng góp thiết thực cho nền kinh tế quốc gia. Thứ ba là khả năng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Và thứ tư là việc tích hợp các yếu tố mang tính thời đại như công nghệ, môi trường và kinh tế xanh vào hoạt động kinh doanh.

Từ kinh nghiệm đó, khi xây dựng khái niệm pháp lý cho doanh nghiệp dân tộc tại Việt Nam, chúng ta cần phải vận dụng nền tảng đã có của quốc tế, đồng thời dựa trên đặc thù riêng của quốc gia. Theo đó, TS. Lê Xuân Sang cho rằng sẽ có 9 tiêu chí chính, trong đó có 4 tiêu chí định lượng gồm: Đóng góp về sở hữu - tỷ lệ vốn của người Việt; tỷ lệ người dân tộc - trong ban lãnh đạo và nhân sự; giá trị gia tăng trong nước - mức độ nội địa hóa; và các đóng góp về việc làm, xã hội, môi trường - chỉ số ESG.

Bên cạnh đó là 5 tiêu chí định tính bao gồm: Vấn đề tài sản dân tộc; đóng góp giá trị cho quốc gia, cộng đồng; hình mẫu đạo đức mang tính dân tộc; tư duy dài hạn về quốc gia, cộng đồng; tự chủ công nghệ sáng tạo.

"Doanh nghiệp dân tộc dàn trải ở nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó cơ chế hỗ trợ cũng cần có sự phân biệt. Bên cạnh đó, cần dung hòa được cả hai mục tiêu - vừa hỗ trợ, khích lệ doanh nghiệp trong nước; vừa tránh tranh chấp mà vẫn thu hút được vốn FDI", TS. Lê Xuân Sang nhấn mạnh./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top