Tiếng rao của bà bán chè xanh vẫn vọng trong ký ức tôi suốt mấy chục năm để thỉnh thoảng, trong một thời khắc yên tĩnh hiếm hoi, lại như cất lên giữa cơn khát của tôi. Lạ thế cái thứ âm thanh luôn gắn với những trưa hè đổ lửa, lặng phắc.
Giờ đây, thú thực thỉnh thoảng tôi vẫn thèm được như ngày nào, bê từng bát nước chè óng ánh uống ừng ực một hơi. Chè xanh cứ phải uống nóng, bằng bát và mỗi lần phải đủ một ngụm lớn. Khi hết khát mới đến đoạn thong thả chép miệng và ngẫm nghĩ. Hoặc có khi chẳng cần ngẫm nghĩ gì mà cứ hưởng cái khoái cảm mơn man nơi cổ họng, vị chát ngọt và mát nơi đầu lưỡi, đã đủ để ra khối chuyện đời. Những lúc ấy tôi thường nghĩ đến một thứ nước thần nào đó chứ không còn là thứ nước hãm từ chè xanh.
Có hai hình ảnh đã trở nên thiêng liêng với tôi suốt thời thơ bé cho đến cả khi đã lớn: Dáng ngồi trầm mặc của cha và vẻ mặt rạng rỡ của mẹ mỗi khi đủng đỉnh đội thúng từ chợ về. Cả hai hình ảnh ấy, kì lạ thay đều dai dẳng gắn với chè xanh, đúng hơn, đều được gợi lên bởi chè xanh.
Bên chiếc bàn gỗ lim đen bóng, cha thường uống từng hớp nước chè xanh nóng do chính tay mẹ tôi hãm để tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn vốn bị cuộc đời làm cho xáo trộn liên miên. Khi đó trông cha tôi thật hạnh phúc.
Còn mỗi khi từ chợ phiên (thường là cách nhau 5 ngày) trở về, bao giờ mẹ cũng cẩn thận bỏ gói chè xanh bọc lá chuối ra trước tiên. Mẹ nắn nót gỡ bọc lá, nắn nót bê trên tay để không lá chè nào bị giập, sẽ làm mất mùi hương tinh khiết của nước sau này. Mẹ làm điều đó cũng với một niềm sung sướng kỳ lạ. Sau đó mẹ còn cẩn thận nhặt từng chiếc lá, loại bỏ đi thứ héo úa, sâu xia, cấm tiệt những lá có màng hay trứng của loài côn trùng bám vào.
Mẹ biết bố chỉ mê thứ chè xanh do mẹ kén. Nó là những lá chè không già nhưng tuyệt đối không được còn non. Mầu của nó hơi ánh một chút vàng tri kỷ, bản lá nhỏ, cạnh có răng cưa, mình dày, bẻ gẫy tanh tách. Chúng được hái từ những cây chè lâu năm trồng ở vùng đồi có pha đá ong vàng và phải ở những cành sát gốc. Đất đai khắc nghiệt, không gian mênh mông với quanh năm gió ràn rạt, nước nguồn phải chắt từng giọt… đã làm trước cho con người sự lựa chọn: Cái gì còn lại là cái quý giá.
Loại chè này khi hãm được một thứ nước vàng óng, cho cảm giác quánh, bí ẩn, hương thơm ngậy, vị chát thanh cao; chát - như một triết lý, hợp với mọi loại người. Bậc trí giả ẩn danh uống để tìm tới đại ngã; kẻ chồng chất tâm sự uống để giải phiền, tục nhân uống để giải tỏa cơn nóng bức, khát cháy họng. Còn các bác thợ cày quê tôi, như một ẩn số vĩnh cửu của kiếp con người và sinh tồn nói chung, uống chè xanh đặc để tìm nguồn sức lực. Chỉ cần mấy củ khoai lang trồng trên đất cát pha đem luộc, ăn nóng, chiêu kèm vài ba bát nước - bảo là nước thần cũng không ngoa - là có thể cày đến chết trâu cả buổi dưới ruộng trũng.
Chè xanh - Cái đơn giản đến tận cùng dung hợp trong cái bí ẩn cao xa, linh thiêng thuộc về trời đất: Sắc màu của nó là sự hòa trộn giữa nóng đỏ (mặt trời) với xanh lạnh (mặt trăng) - tạo ra một thứ nước đầy ẩn dụ, không chỉ để uống giải những cơn khát cháy họng, mà còn làm thanh tẩy và giải thoát cho tâm hồn vô cùng hiệu nghiệm. Không tin, bạn cứ thử một lần sẽ thấy.