Cải cách thể chế - Điểm tựa để xây dựng lực lượng doanh nghiệp lớn mạnh
Thực hiện chủ trương và các mục tiêu của Đảng về phát triển doanh nghiệp, kể từ khi đổi mới, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển doanh nghiệp thông qua việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đã được Nhà nước đặc biệt quan tâm chú ý.
*******
Doanh nghiệp – lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước
Trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng, Nhà nước ta luôn xác định vai trò quan trọng của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Những năm gần đây, quan điểm về vai trò, vị trí cũng như định hướng phát triển doanh nghiệp có sự chuyển biến theo hướng ngày càng tiệm cận với quan niệm về nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế, mà trước hết là bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tự do cạnh tranh.
Đến Đại hội lần thứ XIII đã nâng cao một bước nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó xác định: "... kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội".
Bên cạnh đó, chủ trương phát triển đội ngũ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, phát triển đội ngũ doanh nhân cũng được Đảng đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới đã đề ra mục tiêu: "Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước". Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần có chính sách đột phá để hình thành, phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp.
Thực hiện chủ trương và các mục tiêu của Đảng về phát triển doanh nghiệp, kể từ khi đổi mới, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển doanh nghiệp thông qua việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đã được Nhà nước đặc biệt quan tâm chú ý. Theo đó, đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm bảo đảm các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Các nhóm chính sách lớn được tập trung hoàn thiện bao gồm:
Thứ nhất, hoàn thiện khung khổ pháp luật, chính sách điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể: (1) Nhiều văn bản pháp luật/hiệp định quốc tế, luật và bộ luật lớn tác động đến cộng đồng doanh nghiệp được sửa đổi, hoàn thiện, ban hành; (2) Triển khai đồng bộ các đề án, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng (trong đó cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp là một nhiệm vụ trọng tâm); (3) Ban hành khung chính sách về các mô hình kinh tế mới (kinh tế ban đêm, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế số, kinh tế sáng tạo,…) nhằm mở rộng không gian hoạt động cho các doanh nghiệp; (4) Thực hiện các đề án cải cách hành chính, mở ra cơ chế mới cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp: Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là các DNNVV được đặc biệt quan tâm, qua đó đã tạo điều kiện đáng kể cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực kinh doanh như vốn, thị trường, công nghệ, mặt bằng sản xuất và nguồn nhân lực.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia: Từ năm 2014, Chính phủ ban hành hàng năm Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Nghị quyết số 19/NQ-CP các năm 2014 - 2018 và Nghị quyết số 02/NQ-CP từ năm 2019 - nay). Nghị quyết tập trung vào cải cách thể chế, quy định và thủ tục hành chính. Nhìn chung, qua 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhiều nỗ lực, sáng kiến cải cách đã được triển khai và nhờ đó tạo hiệu ứng lan toả và đạt kết quả tốt; được các tổ chức quốc tế ghi nhận; và được cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, giới chuyên gia đánh giá cao.
Những nỗ lực cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đã và đang mang lại nhiều kết quả tích cực trong việc thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
Về số lượng, giai đoạn 2021 - 2023, trung bình mỗi năm có 141.556 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 10,36% so với mức trung bình của giai đoạn 2016 - 2020 (trung bình có 128.263 doanh nghiệp thành lập mới). Lũy kế đến hết năm 2022, Việt Nam đã có 895.876 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng gấp 1,37 lần so với năm 2017 (654.633 doanh nghiệp). Bình quân cả nước có 9,01 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân, tăng nhanh so với năm 2017 (bình quân có 6,97 doanh nghiệp trên 1.000 dân)1, tiệm cận với mức trung bình của các nước thuộc ASEAN với 11 doanh nghiệp/1.000 dân; tuy nhiên còn khoảng cách khá xa so với các nước phát triển (100 doanh nghiệp/1.000 dân).
Về cơ cấu doanh nghiệp theo ngành nghề, có 606.878 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, chiếm 67,74%; 151.092 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 16,87%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 12.094 doanh nghiệp, chiếm 1,35%.
Việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đã tạo ra sự bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp theo mọi loại hình kinh tế phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp từ khu vực ngoài nhà nước.
Giai đoạn 2016 - 2023, số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng trung bình 7,34% mỗi năm. Lũy kế đến hết năm 2023, có hơn 800.000 doanh nghiệp ngoài nhà nước đang hoạt động có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp khoảng 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng hơn 50% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), khoảng 20% vào ngân sách nhà nước và là nơi sử dụng lao động chính cho khoảng 85% lao động cả nước trong những năm qua.
Việt Nam hiện có khoảng 30 doanh nghiệp tư nhân có giá trị thị trường trên 1 tỷ USD trên thị trường chứng khoán. Một số doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam đã khẳng định vị thế tại thị trường trong nước cũng như trên trường quốc tế, như: Vingroup, VietJet…
Thể chế và những bài toán cần giải
Bên cạnh các kết quả đạt được, còn nhiều điểm hạn chế, tồn tại trong việc cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Một là, việc hoạch định thể chế, chiến lược và xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đánh giá vai trò và định hướng chính sách phát triển các doanh nghiệp vẫn còn mờ nhạt, nhất là đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Vấn đề tạo môi trường kinh doanh thuận lợi còn chưa đồng bộ, thiếu minh bạch. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được thực sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển.
Hai là, việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh chưa đạt được kết quả như mong muốn, các rào cản trong gia nhập thị trường còn rất phổ biến. Công tác cải cách hành chính chưa triệt để, còn nhiều thủ tục gây phiền hà cho doanh nghiệp, tình trạng giấy phép con còn diễn ra ở nhiều nơi. Các chính sách thường thay đổi, khó tiên liệu làm giảm lòng tin của doanh nghiệp.
Ba là, các thể chế hỗ trợ thị trường hoạt động chưa thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải chịu nhiều áp lực của thủ tục hành chính phức tạp và tốn kém. Một số điểm nghẽn cần lưu ý như sau:
Các thể chế kinh tế vi mô chưa tạo được điều kiện thuận lợi để khơi thông nguồn lực đầu vào (vốn, đất đai, công nghệ, lao động) cho các doanh nghiệp. Đây là các điểm nghẽn lớn dẫn đến chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp tăng cao, không tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt đối với nguồn vốn: Thị trường vốn chủ yếu tập trung vào tín dụng ngân hàng. Thị trường chứng khoán và các kênh huy động vốn khác tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa thu hút được sự tham gia của các doanh nghiệp. Còn đối với đất đai: Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp đối với đất đai hoạt động chưa hiệu quả, dẫn đến chi phí tiếp cận mặt bằng sản xuất và đất đai phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp cao...
Về thể chế liên kết doanh nghiệp: Ở Việt Nam liên kết giữa các doanh nghiệp theo chuỗi cung ứng rất hạn chế dẫn đến năng suất lao động thấp. Đây là hệ quả của việc thiếu vắng thể chế hỗ trợ mối liên kết này phát triển. Có rất ít mối liên kết giữa các DNNVV và doanh nghiệp có quy mô lớn hơn; giữa các doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu với các doanh nghiệp nước ngoài có năng suất cao, quy mô lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên các phương pháp và công nghệ hiện đại. Còn đối với liên kết thông qua hiệp hội doanh nghiệp thì hệ thống thể chế chính sách chưa tạo điều kiện và phát huy tốt vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là trong công tác phát triển thị trường và phòng vệ thương mại.
Về thể chế bảo đảm sự cạnh tranh công bằng: Việt Nam vẫn đứng trong khoảng giữa của các quốc gia so sánh về mức độ cạnh tranh trên thị trường. Các so sánh cho thấy mối quan ngại không chỉ về chất lượng của các thể chế liên quan đến cạnh tranh mà còn cả về hiệu lực thực thi. Về thước đo này, Việt Nam xếp thứ 87 trên thế giới và thứ 12 trong khu vực.
Những hạn chế nêu trên là do một số nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Có thể nhắc tới một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, đi lên từ một điểm xuất phát thấp, với ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung bao cấp. Việc xây dựng thể chế bước đầu tập trung vào việc ban hành các quy định chính sách pháp luật trên diện rộng, đảm bảo tất cả các hoạt động kinh doanh đều được quản lý bằng pháp luật. Việc xây dựng thể chế đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả và có những cơ chế, chính sách phù hợp hơn cần nhiều thời gian để tổ chức thực hiện, đánh giá và rút kinh nghiệm; (2) Việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp còn lúng túng; năng lực xây dựng các văn bản pháp lý và chính sách liên quan đến phát triển doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu tư duy đồng bộ, tầm nhìn chiến lược ngay từ thiết kế ban đầu, đôi khi còn mâu thuẫn, hiệu lực thi hành thấp, không ổn định, hay thay đổi đã làm ảnh hưởng tới chiến lược và định hướng kinh doanh của doanh nghiệp; (3) Việc giám sát, đánh giá thực thi chính sách còn hạn chế; (4) Bộ máy hành chính và năng lực đội ngũ công chức còn nhiều bất cập khiến cho công cuộc cải cách hành chính chưa đạt được kết quả mong muốn.
Kiến tạo phát triển
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong quá trình phát triển doanh nghiệp… đã đặt ra yêu cầu, Việt Nam phải nhanh chóng cải thiện tính hiệu quả của thể chế phát triển doanh nghiệp theo các định hướng sau:
Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung khổ chính sách, pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn trong các luật, văn bản quy phạm pháp luật, trước mắt là xử lý chồng chéo lớn thuộc các lĩnh vực có tác động rất lớn tới doanh nghiệp và môi trường kinh doanh như: Đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, nhà ở, kinh doanh bất động sản... Trong dài hạn, Việt Nam cần có một khuôn khổ chính sách cạnh tranh toàn diện nhằm mở cửa thị trường cho doanh nghiệp và tăng cường hiệu lực thực thi chính sách cạnh tranh.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật, nói chung, liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nói riêng, cần thực hiện nghiêm túc việc tham vấn các đối tượng chịu tác động và tham vấn chuyên gia; nâng cao chất lượng và trách nhiệm tham gia của cán bộ pháp chế cũng như người đứng đầu các bộ, ngành. Thường xuyên đối thoại, lắng nghe ý kiến, phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp để có các phản ứng chính sách kịp thời; giải quyết dứt điểm những vướng mắc, bất cập liên quan đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp. Ngay trong những ngày đầu năm 2024, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều đó như một niềm động viên, thêm điểm tựa củng cố tinh thần kinh doanh đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp. Theo đó, cộng đồng doanh nghiệp có niềm tin rằng, Chính phủ đang cùng với các bộ, ngành và địa phương tìm kiếm những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn về pháp lý và thực thi cho doanh nghiệp.
Cùng với những hành động kịp thời đó, cần tiếp tục cải tiến thủ tục thuế, hải quan, tiếp cận đất đai, thanh tra, kiểm tra, môi trường, đặc biệt là công tác kiểm tra chuyên ngành. Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ thời gian qua đã chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành đẩy mạnh việc cắt giảm, loại bỏ các thủ tục kiểm tra chuyên ngành nhưng doanh nghiệp vẫn có nhiều kiến nghị đẩy mạnh hơn nữa việc đơn giản hóa các thủ tục kiểm tra chuyên ngành, loại bỏ các thủ tục kiểm tra không cần thiết. Thực hiện chức năng kiến tạo phát triển, Chính phủ, chính quyền các cấp phải đồng hành và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Tích cực đổi mới phương thức làm việc, thực sự lấy người dân và doanh nghiệp là trung tâm phục vụ.
Ba là, nâng cao hiệu quả thể chế hỗ trợ của doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là các DNNVV thông qua thực thi Luật hỗ trợ DNNVV. Mặc dù Luật Hỗ trợ DNNVV đã được ban hành trong một thời gian khá dài, song việc triển khai thực hiện là một vấn đề lớn. Thách thức lớn nhất hiện nay đó chính là việc xây dựng các bộ công cụ, mô hình hỗ trợ hiệu quả, mang tính bền vững và phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ tư là, tăng cường các thể chế liên kết. Tập trung vào cải thiện các thể chế nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp có trình độ công nghệ, quản trị hiện đại, có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng suất.
Năm là, hoàn thiện thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Nhà nước cần có kế hoạch tổng thể về cải cách tư pháp liên quan đến hoạt động doanh nghiệp nhằm góp phần tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và có thể dự báo được. Trước mắt, tập trung vào việc rút ngắn thời gian xét xử các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp và thời gian giải quyết phá sản doanh nghiệp; đưa ra các mục tiêu và giải pháp để rút ngắn thời gian và tăng tính hiệu quả khi thi hành án dân sự; có chế tài đủ mạnh để răn đe các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ; bảo vệ những doanh nghiệp làm ăn chính đáng, hợp pháp; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng thanh tra, kiểm tra để sách nhiễu doanh nghiệp.
* * * * *
Trong giai đoạn tới đây, tình hình kinh tế thế giới được dự báo còn có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt ngoài dự báo của các tổ chức quốc tế và các nước về cả kinh tế, chính trị, an ninh, ảnh hưởng mạnh đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư. Cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế giữa các nước lớn diễn ra gay gắt dẫn đến các chuỗi cung ứng, sản xuất đứt gãy cục bộ, giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh và tăng cao, đẩy lạm phát thế giới gia tăng nhanh và đạt mức cao nhất trong nhiều thập kỷ. Cầu tiêu dùng hàng hóa suy giảm trong khi hỗ trợ tài chính cho người dân, doanh nghiệp phục hồi do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 giảm dần. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ… diễn ra trên diện rộng, gây nhiều thiệt hại ở nhiều khu vực trên thế giới.
Ở trong nước, tình hình kinh tế - xã hội diễn ra tương đối ổn định, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn, phức tạp hơn. Quy mô kinh tế còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng thích ứng còn hạn chế nên nền kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng lớn và rất nhạy cảm với những diễn biến từ bên ngoài…
Bối cảnh đó, đặt ra thách thức rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, các DNNVV tại Việt Nam.
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, trong giai đoạn tới đây, Chính phủ cần xác định việc hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh là những nhiệm vụ quan trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển. Đây cần được coi là nhiệm vụ thường xuyên, được thực thi xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương.
Việc cải cách cần được thực hiện phù hợp với các thông lệ và cam kết quốc tế để bảo đảm yêu cầu cạnh tranh quốc tế. Các bộ, ngành, địa phương cần có sự triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nhiệm vụ về cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo đó, khi ban hành văn bản pháp luật mới hay sửa đổi, bổ sung văn bản hiện có không được đặt thêm các rào cản, không được đi ngược lại những cải cách đã làm. Đồng thời, giải quyết ngay theo thẩm quyền các vấn đề, sửa đổi trong các quy định đang gây khó khăn, tốn kém cho đầu tư, kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp./.
[1] Niên giám thống kê 2022