Chiều 12/10, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Các chính sách hỗ trợ đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp
Trình bày báo cáo, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau hơn 1,5 năm triển khai, Chính phủ, các bộ, cơ quan, địa phương đã nỗ lực, quyết tâm, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ được giao, thực hiện và hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu và tiến độ đề ra, đã ban hành đầy đủ 17/17 văn bản theo thẩm quyền để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết.
Bộ trưởng nhấn mạnh đây là nỗ lực rất lớn khi nhiều chính sách có nội dung mới, chưa từng có tiền lệ và chưa từng được triển khai trước đây nhưng đã được nghiên cứu, xây dựng theo trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, được đánh giá tác động trước khi ban hành. Các chính sách đã phát huy hiệu quả, được người dân, doanh nghiệp, cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Theo Bộ trưởng, tính đến hết tháng 8/2023, các chương trình hỗ trợ đã giải ngân khoảng 94,7 nghìn tỷ đồng. Một số chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí có kết quả thực hiện cao, góp phần giảm bớt khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và đã được Quốc hội cho phép tiếp tục thực hiện trong năm 2023.
Thẩm tra tình hình thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đánh giá cao sự chỉ đạo quyết liệt, tích cực, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, vai trò đầu mối của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như sự tham gia vào cuộc của các bộ, ngành, cơ quan Trung ương có liên quan, UBND các tỉnh, thành phố. Nhờ đó, đã ban hành đầy đủ các văn bản theo thẩm quyền để cụ thể hóa các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết số 43, tổ chức phối hợp, thực hiện và hoàn thành khối lượng lớn công việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu và tiến độ đề ra.
Đặc biệt, kết quả thực hiện các gói hỗ trợ của chính sách tài khóa đã góp phần tiết giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp, kích cầu tiêu dùng trong nước, giảm chi phí đầu vào, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sớm phục hồi và phát triển.
Một số chính sách hỗ trợ có kết quả thực hiện cao như các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí đạt 94,1% kế hoạch, trong đó chính sách giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT) đạt 90% kế hoạch và hiện đã được Quốc hội cho phép tiếp tục áp dụng trong thời gian từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 (Nghị quyết số 101/2023/QH15).
Chính sách cho vay thông qua Ngân hàng chính sách xã hội cũng đạt 54,55% hạn mức tối đa, trong đó chính sách cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đã đạt 100% kế hoạch đề ra và hiện nay vẫn đang tiếp tục có nhu cầu lớn nhưng không có nguồn lực để bố trí.
Nhìn chung, các chính sách triển khai thực hiện đã có tác động tích cực, góp phần tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi kinh tế, đóng góp quan trọng trong các kết quả kinh tế - xã hội năm 2022 và 2023.
Cần đánh giá rõ ràng nguyên nhân, và giải pháp để nâng cao hiệu quả các gói hỗ trợ
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nêu rõ, đến cuối tháng 7/2023, số tiền hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh mới đạt khoảng 681 tỷ đồng, tương đương 1,7% nguồn lực bố trí để thực hiện chính sách (40.000 tỷ đồng), trong đó riêng 7 tháng năm 2023 đạt khoảng 547 tỷ đồng. Dự kiến đến hết năm 2023 sẽ chỉ giải ngân được khoảng 1.408 tỷ đồng, còn khoảng 38.592 tỷ đồng không sử dụng hết. Như vậy, chính sách có kết quả triển khai thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả trên. Trong đó, ngoài nguyên nhân khách hàng đủ điều kiện nhưng e ngại công tác thanh tra, kiểm tra và những khó khăn phát sinh nên chủ động không thụ hưởng, thì khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện “có khả năng phục hồi” theo quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15, tức là khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, nhưng cũng không thể khẳng định có khả năng phục hồi.
Trường hợp khách hàng được hỗ trợ lãi suất, nhưng tình hình sản xuất - kinh doanh suy giảm, ảnh hưởng đến các tiêu chí nêu trên làm cho ngân hàng thương mại và khách hàng e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá trục lợi chính sách. Ngoài ra, một số khách hàng có doanh thu/lợi nhuận trong giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó để đánh giá việc đáp ứng tiêu chí “phục hồi”.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đánh giá, việc giải ngân hết các gói hỗ trợ này theo quy định của Nghị quyết số 43 là không khả thi, quy trình thủ tục gây nhiều vướng mắc, khó khăn trong triển khai thực hiện. Điều này cho thấy việc đề xuất, xây dựng chính sách chưa sát thực tế, quy trình thủ tục gây nhiều vướng mắc, khó khăn trong triển khai thực hiện.
Do đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tập trung phân tích, làm rõ nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện chậm. Ngoài những nguyên nhân đã chỉ ra trong báo cáo, cần đánh giá việc bám sát thực tiễn trong công tác dự báo, tính toán nhu cầu, trình tự thủ tục hỗ trợ trước khi ban hành chính sách; bổ sung đánh giá việc triển khai các chính sách chậm tác động tới đối tượng thụ hưởng và hiệu quả tổng thể của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Tại phiên họp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, việc ban hành Nghị quyết 43 là rất kịp thời, có ý nghĩa quan trọng, có tác động tích cực đối với tình hình kinh tế và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế xã hội, nhất là chính sách an sinh xã hội, việc thực hiện chậm sẽ không phát huy được hiệu quả như ban đầu.
Thực tế, quá trình thực hiện chính sách lại chậm hơn việc ban hành chính sách. Một số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhanh, có hiệu lực sớm, tuy nhiên, cũng có những chính sách bị triển khai muộn, chưa đồng đều giữa ban hành và thực hiện, cũng chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng đều giữa các cơ quan triển khai.
Hay có những chính sách, mức độ nhận biết và mức độ thụ hưởng của doanh nghiệp rất cao, nhưng có những chính sách thì ngược lại. Như khảo sát doanh nghiệp của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ có 29,5% doanh nghiệp biết tới chính sách này, trong đó có khoảng 2% doanh nghiệp đã nhận được khoản vay theo Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%, 56,7% doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay theo gói hỗ trợ này.
Do đó, cần rút kinh nghiệm trong thiết kế các chương trình trong thời gian tới, để đảm bảo các doanh nghiệp, đối tượng thụ hưởng có thể dễ dàng tiếp cận với chính sách. Đồng thời, đại diện VCCI kiến nghị tiếp tục triển khai một số chính sách kích cầu, hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp, hoặc điều chuyển một số chương trình để có nguồn lực cho các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh, góp phần giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong tiếp cận thị trường quốc tế.