Nhiều rào cản khiến chuyển đổi khu công nghiệp chậm trễ
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu cùng những biến động về địa chính trị và kinh tế thế giới đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc tái cấu trúc mô hình phát triển khu công nghiệp tại Việt Nam. Thay vì tiếp tục mở rộng các khu công nghiệp truyền thống với nhiều bất cập, xu hướng phát triển khu công nghiệp xanh, khu công nghiệp sinh thái đang được xác định là hướng đi ưu tiên trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2024, cả nước có 299 khu công nghiệp đang hoạt động, nhưng chỉ khoảng 3 - 5 trong số đó đang thực hiện các bước chuyển đổi rõ rệt sang mô hình sinh thái - tương đương tỷ lệ chưa tới 2%. Con số này cho thấy khoảng cách đáng kể giữa định hướng phát triển bền vững và thực tiễn triển khai, đặc biệt trong khi Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ về mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và Chiến lược Tăng trưởng xanh đến năm 2050.
Phát biểu tại Diễn đàn Phát triển Khu công nghiệp Việt Nam 2025 ngày 29/5, ông Bạch Ngọc Tùng - Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Xây dựng ACUD Việt Nam - cho rằng nguyên nhân dẫn đến thực trạng này xuất phát từ nhiều yếu tố: Nhận thức chậm của các chủ đầu tư hạ tầng, tâm lý e ngại chi phí đầu tư ban đầu, thiếu hướng dẫn kỹ thuật cụ thể và khung pháp lý thực thi chưa thực sự hoàn thiện.
Bên cạnh đó, năng lực nhân sự còn hạn chế cùng với sự phối hợp thiếu hiệu quả giữa các bên liên quan cũng là những trở ngại lớn cản trở quá trình chuyển đổi từ khu công nghiệp truyền thống sang mô hình sinh thái.

Ông Bạch Ngọc Tùng, Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Xây dựng ACUD Việt Nam.
Ông Tùng nhấn mạnh: "Yếu tố tiên quyết để xây dựng thành công khu công nghiệp sinh thái không nằm ở công nghệ, mà ở tầm nhìn và cam kết chiến lược của chủ đầu tư hạ tầng. Cần xem khu công nghiệp không chỉ đơn thuần là nơi đặt nhà xưởng, mà phải là một phần của hệ sinh thái sản xuất - xã hội - môi trường, có khả năng tự điều phối và cân bằng. Khi có được tư duy này, các nhà đầu tư mới có đủ quyết tâm và động lực để chuyển mình mạnh mẽ".
Theo ông Tùng, trong giai đoạn 2025 - 2035, các khu công nghiệp sinh thái - nơi hội tụ tư duy quy hoạch thông minh, công nghệ số và trách nhiệm môi trường - sẽ trở thành những hạt nhân dẫn dắt mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam. "Tương lai của nền kinh tế xanh sẽ được định hình từ chính các khu công nghiệp như vậy - nơi không chỉ là không gian sản xuất, mà còn là mắt xích quan trọng trong hành trình hướng tới một nền kinh tế tuần hoàn, bền vững và thân thiện với môi trường", ông kỳ vọng.
Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi: Từ nhận thức đến hành động
Để rút ngắn khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tiễn, các chuyên gia cho rằng việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp sinh thái cần được thúc đẩy trên nhiều cấp độ, từ chính sách vĩ mô, cơ chế tài chính đến đổi mới cách tiếp cận của doanh nghiệp.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, Thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Bắc cho rằng, cần xây dựng một hệ thống cơ chế hỗ trợ đầy đủ và rõ ràng hơn cho quá trình chuyển đổi. Cụ thể, cần thiết lập bộ tiêu chí rõ ràng cho việc cấp phép và vận hành khu công nghiệp sinh thái; đồng thời có các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng cho các khu công nghiệp áp dụng mô hình tuần hoàn nước, tái chế chất thải và sử dụng năng lượng sạch. "Mô hình khu công nghiệp sinh thái cần được khuyến khích và nhân rộng", ông nhấn mạnh.

Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, Thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Bắc.
Ông Bạch Ngọc Tùng cũng đồng tình, dù định hướng phát triển khu công nghiệp sinh thái đã được nêu rõ trong Nghị định 35/2022/NĐ-CP và Thông tư 05/2025/TT-BKHĐT, song nhiều doanh nghiệp cho biết còn thiếu hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình chuyển đổi. Do vậy, yếu tố quan trọng hàng đầu là hoàn thiện khung pháp lý và chính sách.
Ngoài ra, để quá trình thúc đẩy mô hình khu công nghiệp sinh thái diễn ra hiệu quả, theo ông Tùng, cần đồng thời thực hiện nhiều nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất là nâng cao năng lực và nhận thức, thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý, ban quản lý khu công nghiệp và doanh nghiệp về khu công nghiệp sinh thái. Phổ biến rộng rãi các bộ công cụ, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật (ví dụ từ UNIDO…) và các mô hình thành công để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và áp dụng.
Thứ hai là hỗ trợ tài chính và công nghệ. Theo đó, nghiên cứu thành lập các quỹ phát triển xanh hoặc chương trình hỗ trợ tài chính ưu đãi cho các dự án chuyển đổi khu công nghiệp sinh thái và đầu tư công nghệ sạch. Đẩy mạnh R&D, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực môi trường, tái chế và sử dụng hiệu quả tài nguyên sản xuất sạch hơn.
Thứ ba là tăng cường cơ sở dữ liệu và ciám sát. Cụ thể, hoàn thiện và vận hành hiệu quả Hệ thống thông tin quốc gia về khu công nghiệp và khu kinh tế, đảm bảo dữ liệu đầy đủ, chính xác, kịp thời và dễ truy cập. Xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài nguyên và phát thải tại các khu công nghiệp, công khai kết quả để tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Thứ tư là quy hoạch và phát triển hạ tầng đồng bộ.
"Sự thành công của việc phát triển khu công nghiệp theo hướng sinh thái đòi hỏi sự nỗ lực đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp. Đây là một quá trình chuyển đổi mang tính chiến lược, góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới", ông Tùng nhìn nhận./.