"Vốn xanh" vẫn là rào cản lớn đối với doanh nghiệp trên hành trình tăng trưởng xanh
Chuyển đổi xanh đang là yêu cầu tất yếu để Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nhưng khoảng cách giữa nhu cầu vốn hàng trăm tỷ USD và thực tế huy động vẫn còn rất xa.
Theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng, việc huy động nguồn lực tài chính cho mục tiêu phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 cần khoản đầu tư khoảng 6,8% GDP mỗi năm, tương đương 368 tỷ USD cho đến năm 2050.
Trong khi vốn ngân hàng là vốn ngắn hạn, tập trung, thì thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh của Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và với nhu cầu huy động vốn cho chuyển đổi xanh. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh là 20%/năm, cao hơn tăng trưởng tín dụng của toàn ngành kinh tế. Song thực tế, mới có 58 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ mới đạt khoảng 704.200 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tính đến ngày 31/3/2025.
"Trong 5 năm qua mới có 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh được phát hành, còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn khoảng 20 tỷ USD trung bình mỗi năm để thực hiện các mục tiêu chuyển đổi xanh, dự án xanh", Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chia sẻ.

Tại Diễn đàn Phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững mới đây, TS. Lại Văn Mạnh, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam tăng trưởng mạnh và liên tục từ năm 2015 đến tháng 6/2024, đặc biệt bứt phá từ năm 2020 với dự báo đạt trên 700.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024. Giai đoạn 2018 - 2023, tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh có năm lên tới 30%, cao hơn nhiều so với mức 12 - 14% của tín dụng toàn nền kinh tế.
Tuy nhiên, nguồn vốn này vẫn chủ yếu đến từ hệ thống ngân hàng, trong khi kênh huy động dài hạn qua trái phiếu bền vững còn rất hạn chế. Quy mô phát hành trái phiếu bền vững của Việt Nam chỉ dao động 75 - 250 triệu USD/năm trong giai đoạn 2021 - 2024, kém xa mức 200 - 250 tỷ USD của cả khu vực ASEAN+3. Khoảng cách này cho thấy bài toán vốn xanh vẫn là điểm nghẽn lớn, nếu không được giải quyết sẽ khó đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp cho các dự án chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.
TS. Lại Văn Mạnh cũng lưu ý, hiện dư nợ tín dụng xanh mới chiếm khoảng 4% tổng dư nợ, lại tập trung chủ yếu vào năng lượng tái tạo và nông nghiệp. Các lĩnh vực tiềm năng khác vẫn chưa được khơi thông. Chính vì vậy, cần sớm hoàn thiện khung ưu đãi thuế và tín dụng cho các dự án giảm phát thải, đồng thời thiết kế Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhóm chịu áp lực lớn khi chi phí đầu tư công nghệ sạch cao và khả năng tiếp cận tín dụng xanh còn hạn chế.
Không để thời cơ chuyển đổi xanh trôi qua
Lần đầu tiên, khái niệm ESG được đề cập trong nghị quyết của Đảng - Nghị quyết 68-NQ/TW, khẳng định sẽ có các cơ chế hỗ trợ, giảm lãi suất cho doanh nghiệp thực hành tiêu chuẩn ESG và chuyển đổi xanh. Chuyên gia kỳ vọng, đây sẽ là cú hích chính sách quan trọng.
TS. Nguyễn Thanh Hải, Chuyên gia kinh tế cao cấp của GIZ nhấn mạnh: Thiếu vốn và thiếu cơ chế ưu đãi tài chính sẽ khiến doanh nghiệp khó phát huy vai trò trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi. Đáng mừng là việc ban hành Nghị quyết 68 - bước đột phá về chính sách thể chế cho kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế xanh nói riêng, sẽ tạo nền tảng quan trọng để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia sâu hơn vào quá trình phát triển xanh.
Đặc biệt, Bộ Tài chính mới đây đã quyết định thành lập Tổ soạn thảo nhằm triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn, theo tinh thần của Nghị quyết 68. Đây là bước đi rất cụ thể, mở ra cơ hội tiếp cận nguồn vốn ưu đãi rõ ràng cho doanh nghiệp".

TS. Nguyễn Thanh Hải, Chuyên gia kinh tế cao cấp của GIZ.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế cao cấp của GIZ, kinh nghiệm quốc tế cho thấy yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển gắn với tăng trưởng xanh chính là việc thiết lập một khung khổ pháp lý đầy đủ, ổn định.
Thực tế, Liên minh châu Âu (EU), Đức và Trung Quốc là những ví dụ điển hình. Chỉ trong vòng 5 năm, EU đã thiết lập được khung pháp lý toàn diện cho tăng trưởng xanh, bao gồm chiến lược, kế hoạch thực thi và cơ chế giám sát. Từ tháng 11/2019, EU ban hành khung ứng phó biến đổi khí hậu và năm 2020 đưa ra bộ "phân loại xanh" - tiêu chí cốt lõi để định hướng đầu tư. Về tín dụng, EU có gói tài trợ lớn cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh, trong đó, riêng từ trái phiếu xanh đã 250 tỷ USD.
Trong khi đó, Trung Quốc đi khá sớm khi năm 2012 đã có hệ thống phân loại xanh và đến năm 2015 ban hành hướng dẫn về tài chính - trái phiếu xanh. Đặc điểm nổi bật của quốc gia này là thường xuyên cập nhật khung pháp lý, bảo đảm doanh nghiệp kịp thời thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế. Các ưu đãi chính sách của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào tài chính và tín dụng xanh.
Tại Đức, Chính phủ cũng triển khai chương trình tín dụng xanh quy mô tới 70 tỷ Euro, giao cho các ngân hàng thương mại thực hiện. Chương trình này rất thành công, đặc biệt là trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí, nếu không có cơ chế này, Đức khó có thể duy trì an ninh năng lượng trong bối cảnh chiến sự Nga - Ukraine, theo TS. Nguyễn Thanh Hải.
"Kinh nghiệm của chúng tôi khi nghiên cứu về tăng trưởng xanh ở 35 quốc gia cho thấy, hầu hết các quốc gia này đều có cơ chế ưu đãi tài chính xanh. Chính sách cũng được điều chỉnh linh hoạt, khi doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí về tăng trưởng xanh, giảm phát thải sẽ được nhận thêm hỗ trợ tài chính từ Nhà nước", ông Hải cho hay.
Từ những kinh nghiệm quốc tế, TS. Nguyễn Thanh Hải cho rằng Việt Nam cần sớm hành động trên hai phương diện. Thứ nhất, phải nhanh chóng đồng bộ và cập nhật khung pháp lý về tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh. Theo ông, tại Trung Quốc và Liên minh châu Âu, các bộ khung pháp lý đã được ban hành tương đối sớm và thường xuyên được cập nhật, nhờ đó tạo niềm tin và động lực để doanh nghiệp đầu tư dài hạn. Trong khi đó, tại Việt Nam, mặc dù Nghị quyết 68 đã đưa ra định hướng lớn, song nếu chậm cụ thể hóa bằng các quy định pháp lý chi tiết, thời cơ và cơ hội phát triển sẽ trôi qua.
Thứ hai, Việt Nam cần xây dựng một chương trình trọng điểm quốc gia về tăng trưởng xanh và chuyển đổi xanh, đi kèm với kế hoạch tài chính rõ ràng và cơ chế tài trợ dành cho doanh nghiệp. Những chính sách ưu đãi, chẳng hạn hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp tham gia dự án xanh, tuần hoàn, là bước đi khởi đầu đáng khích lệ.
Tuy nhiên, dự thảo nghị định mà Chính phủ dự kiến ban hành tới đây sẽ là một cú hích thực sự, nếu tính toán được áp lực lên ngân sách nhà nước, cũng như tính toán được ưu đãi lãi suất, ưu đãi giá đối với cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, để kịp thời điều chỉnh, chuyển sang các phương thức ưu đãi phù hợp hơn với thị trường và sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
Ông cũng lưu ý, chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước, mà cần kết hợp với các nguồn vốn ODA, vốn quốc tế và các quỹ tài chính xanh toàn cầu. Đây là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời tạo nền tảng để hiện thực hóa các mục tiêu về phát thải ròng bằng "0".
"Luật Bảo vệ môi trường đã đề cập đến cơ chế khuyến khích, ưu đãi cho phát triển xanh. Nhưng vấn đề quan trọng hiện nay là phải cụ thể hóa thành các chương trình, chính sách và công cụ tài chính phù hợp, để doanh nghiệp không chỉ nhìn thấy định hướng, mà thực sự có điều kiện triển khai chuyển đổi xanh", TS. Nguyễn Thanh Hải nhấn mạnh.