Sáng 10/11, Đại học Xây dựng Hà Nội phối hợp cùng Cục Đường bộ Việt Nam tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý, vận hành, khai thác đường cao tốc và đề xuất ứng dụng tại Việt Nam”.
Tại sự kiện, ông Lê Châu Thắng - Phó Tổng Giám đốc CTCP Đầu tư Hạ tầng Giao thông Đèo Cả cho biết, tính đến tháng 10 năm nay, doanh nghiệp đang quản lý, vận hành 32,85km hầm đường bộ, 204,19km đường cao tốc, 215,28km đường bộ các cấp, cùng 209 cây cầu và 19 trạm thu phí trên cả nước.
Ông Thắng nhận định, trong bối cảnh hạ tầng giao thông Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, mạng lưới đường cao tốc hiện đã đạt gần 2.300km đưa vào khai thác; dự kiến đến cuối năm 2025 đạt 3.200km, và phấn đấu đến năm 2030 sẽ đạt 5.000km.

Hình ảnh tại hội thảo. Nguồn ảnh: Đại học Xây dựng Hà Nội
Tuy nhiên, phần lớn các tuyến cao tốc mới chỉ ở giai đoạn đầu tư 1, thiếu hệ thống camera giám sát và các công cụ quản lý tự động. Việc vận hành vẫn mang tính thủ công, chưa tận dụng được sức mạnh của công nghệ số.
Xuất phát từ thực tế này, Tập đoàn Đèo Cả đang hợp tác với Tập đoàn Hoa Thiết (Trung Quốc) để ứng dụng công nghệ UAV kết hợp trí tuệ nhân tạo (AI) và hệ thống quản lý hạ tầng số hóa.
Mô hình này hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả vận hành và khai thác các công trình hạ tầng giao thông như đường cao tốc và hầm đường bộ, phù hợp với điều kiện tại Việt Nam.
Chia sẻ tại hội thảo, ThS. Bùi Đình Tuấn - Giám đốc Ban Quản lý khai thác của VEC nhấn mạnh, sự phát triển của hệ thống đường cao tốc là thước đo quan trọng của một nền kinh tế hiện đại.
Ở nhiều quốc gia tiên tiến, cao tốc không chỉ là hạ tầng vận tải chiến lược, mà còn phản ánh năng lực quản trị, văn minh giao thông và tính bền vững trong phát triển.
Theo ông Tuấn, kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Mỹ cho thấy hiệu quả vận hành cao tốc không chỉ đến từ hạ tầng hiện đại mà còn nằm ở phương thức quản lý khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến và xây dựng văn hóa giao thông chuẩn mực.
Tại Việt Nam, công tác quản lý và tổ chức giao thông cao tốc đã có những bước tiến rõ rệt, song vẫn ở mức cơ bản. Để khắc phục những hạn chế, ông Tuấn đề xuất cần một chiến lược quản lý tổng thể, hiện đại và linh hoạt.
Trước hết, cần hoàn thiện thể chế pháp lý, ban hành bộ tiêu chuẩn riêng cho đường cao tốc, đồng thời bổ sung quy định cho phép thay đổi tốc độ và làn đường dựa trên dữ liệu ITS - bước chuyển quan trọng từ quản lý tĩnh sang quản lý động, từ ứng phó sang chủ động điều tiết.
Bên cạnh đó, Việt Nam nên xây dựng Trung tâm điều hành giao thông cao tốc quốc gia, kết nối toàn bộ dữ liệu ITS, ứng dụng AI và Big Data để phân tích, dự báo và ra quyết định điều hành.
Các hệ thống như kiểm soát tốc độ trung bình, quản lý làn linh hoạt theo thời gian thực cần được thí điểm trên những tuyến trọng điểm.
Về hạ tầng hỗ trợ, cần phát triển trạm dừng nghỉ đạt chuẩn, làn khẩn cấp liên tục và biển báo điện tử đồng bộ, tạo nền tảng cho một hệ thống giao thông cao tốc an toàn, thông minh và bền vững.