
Kinh tế Việt Nam: Từ kiến tạo độc lập đến kiến tạo thịnh vượng - Động lực mới cho thập kỷ 2025 - 2035
Tám mươi năm qua (1945 - 2025), kinh tế Việt Nam đã đi một hành trình đầy biến động: Từ nền tảng sinh tồn trong chiến tranh, bứt phá nhờ công cuộc Đổi mới 1986, cho đến củng cố ổn định vĩ mô và mở lối vào kỷ nguyên số và xanh. Những kết quả năm 2024 với GDP tăng 7,09%, lạm phát kiểm soát ở mức 3,63%, xuất siêu gần 25 tỷ USD và giải ngân vốn FDI đạt kỷ lục 25,35 tỷ USD đã khẳng định sức chống chịu cũng như sức hút của một nền kinh tế đang bước sang giai đoạn phát triển mới. Trong bối cảnh toàn cầu đầy bất định, thông điệp của dấu mốc 80 năm không chỉ là niềm tự hào về quá khứ, mà còn là yêu cầu kiến tạo thịnh vượng cho tương lai.
Hành trình phát triển kinh tế Việt Nam có thể chia thành ba chặng rõ rệt. Giai đoạn đầu tiên, từ năm 1945 đến 1985, là thời kỳ đất nước tập trung vào việc kiến tạo nền tảng sinh tồn và hình thành một nhà nước hiện đại. Xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế thời điểm đó phải đối mặt với thiếu thốn, chiến tranh và bao cấp, song vẫn duy trì được năng lực sản xuất cơ bản, đặt nền móng thể chế cho một quốc gia độc lập.
Giai đoạn thứ hai, từ 1986 đến 2010, gắn liền với công cuộc Đổi mới mở cửa và hội nhập sâu rộng. Những cải cách "giá - lương - tiền", tự do hóa thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài đã đưa Việt Nam trở thành một trong những điểm sáng giảm nghèo nhanh nhất khu vực, duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài và từng bước chuyển dịch cơ cấu sang công nghiệp - dịch vụ.
Giai đoạn thứ ba, từ 2011 đến nay, tập trung vào củng cố ổn định vĩ mô, đồng thời mở ra kỷ nguyên phát triển số và xanh. Sau cú sốc đại dịch Covid-19 (2020-2021), Việt Nam nhanh chóng bình thường hóa và khôi phục tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Năm 2024 trở thành cột mốc quan trọng với GDP tăng 7,09%, lạm phát ở mức 3,63%, cán cân thương mại thặng dư gần 25 tỷ USD và giải ngân vốn FDI đạt kỷ lục 25,35 tỷ USD.
Trong cơ cấu tăng trưởng, xuất khẩu tiếp tục chứng tỏ sự linh hoạt với mức tăng hơn 14% năm 2024, chủ yếu nhờ khu vực chế biến - chế tạo. Cùng lúc đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài giải ngân kỷ lục cho thấy môi trường đầu tư ngày càng cải thiện. Chuyển đổi số cũng lan tỏa mạnh mẽ, kinh tế số ước chiếm 18,3% GDP, với hơn 73.800 doanh nghiệp số và khoảng 1,3 triệu lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền tảng quan trọng để nâng cao năng suất toàn yếu tố trong thập kỷ tới. Những thành quả này đang tạo ra nền tảng hiếm có trong bối cảnh bất định toàn cầu.
Có thể nói, công cuộc Đổi mới đã thiết lập cơ chế thị trường có quản lý, giải phóng nguồn lực tư nhân, thúc đẩy hội nhập thông qua các Hiệp định thương mại tự do đa tầng, đồng thời duy trì vòng tròn "ổn định - cải cách - tăng trưởng". Thành quả được nhìn thấy rõ trong quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng công nghiệp khi tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 44,3% vào năm 2024, mạng lưới cao tốc Bắc - Nam đã có gần 1.200km đưa vào vận hành. Đổi mới không chỉ mở cánh cửa hội nhập, mà còn tạo ra động lực nội sinh để Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn kết tăng trưởng kinh tế với cải thiện chất lượng sống và hội nhập toàn cầu. Đây cũng chính là nền móng để đất nước bước vào giai đoạn phát triển số và xanh của thế kỷ XXI.
Tám mươi năm qua (1945 - 2025), kinh tế Việt Nam đã đi một hành trình đầy biến động: Từ nền tảng sinh tồn trong chiến tranh, bứt phá nhờ công cuộc Đổi mới 1986, cho đến củng cố ổn định vĩ mô và mở lối vào kỷ nguyên số và xanh. (Ảnh minh hoạ)
Cũng từ hành trình này, ba bài học lớn có thể rút ra. Thứ nhất, giữ ổn định vĩ mô là điều kiện cần cho đầu tư dài hạn. Thứ hai, cải cách thể chế phải đi trước mở đường, minh chứng. Thứ ba, chất lượng thực thi và sự phối hợp chính sách đóng vai trò quyết định, trong đó năng lực tổ chức, giám sát và số hóa dữ liệu quan trọng hơn chính nội dung văn bản.
Trên cơ sở những gì đạt được trong chặng đường 80 năm vừa qua, có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đủ nội lực và sẵn sàng tâm thế để bước sang thập kỷ mới 2025 - 2035. Dù vậy, không có nghĩa là Việt Nam không phải đối diện với thách thức. Thậm chí, trong giai đoạn tới, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam là không ít.
Nếu chỉ dựa vào gia công lắp ráp, dư địa tăng trưởng sẽ nhanh chóng cạn kiệt, do đó đòi hỏi phải nâng cấp chuỗi giá trị, gắn với R&D và kỹ năng số. Thị trường vốn và bất động sản sau giai đoạn điều chỉnh cũng đặt ra thách thức lớn về sự phát triển bền vững, minh bạch. Về năng lượng, nhu cầu điện tăng nhanh đòi hỏi đầu tư mạnh mẽ vào nguồn và lưới. Quá trình đô thị hóa cũng đối mặt với vấn đề chất lượng khi diện tích nhà ở bình quân đạt 26,6m²/người vào năm 2024, song vẫn còn bất cập về phân bổ và hạ tầng tại một số vùng động lực.
PGS. TS. Ngô Trí Long, Chuyên gia kinh tế.
Song hành với thách thức là những cơ hội rõ rệt. Sự tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu giúp Việt Nam trở thành điểm đến của dòng vốn FDI trung - cao cấp trong các lĩnh vực điện tử, bán dẫn, thiết bị y tế và trung tâm dữ liệu. Hệ thống hạ tầng giao thông - logistics tiếp tục mở rộng, từ cao tốc Bắc - Nam đến sân bay Long Thành và các vành đai đô thị lớn. Đặc biệt, việc định vị chuyển đổi năng lượng với mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi có thể đưa Việt Nam trở thành điểm tựa năng lượng sạch trong chuỗi sản xuất ASEAN, đồng thời đáp ứng các yêu cầu khắt khe như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU.
Để tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức, nhiều đột phá chiến lược cần được thúc đẩy. Đó là đẩy nhanh tiến độ hạ tầng giao thông, công nghiệp và năng lượng; phát triển nhân lực số, nâng cao năng suất và khuyến khích R&D.
Với riêng lĩnh vực bất động sản, cần hoàn thiện pháp lý, số hóa thủ tục, xây dựng thị trường tài chính bất động sản minh bạch với nguồn vốn dài hạn. Cùng với đó, cần triển khai mạnh mẽ chương trình 1 triệu căn nhà ở xã hội gắn với cơ chế tín dụng ưu đãi và quỹ đầu tư bất động sản.
Nếu 80 năm trước dân tộc Việt Nam đã chứng minh ý chí giành độc lập, thì hôm nay, sau 80 năm, thế hệ hiện tại cần chứng minh năng lực kiến tạo thịnh vượng bằng kỷ luật vĩ mô, cải cách thể chế và thực thi minh bạch. Mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 sẽ phụ thuộc vào tốc độ và chất lượng của đột phá thể chế, chính sách và việc thực thi chính sách./.