Aa

Nghị quyết 68-NQ/TW: Gỡ “nút thắt” đất đai, kích hoạt nguồn lực cho doanh nghiệp bứt phá

Thứ Sáu, 30/05/2025 - 06:00

Nghị quyết 68-NQ/TW được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những “nút thắt” kéo dài nhiều năm qua liên quan đến đất đai và mặt bằng sản xuất, những yếu tố then chốt đang kìm hãm bước tiến của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để kỳ vọng không chỉ dừng lại trên giấy, điều cần thiết là một khung thể chế minh bạch, có ràng buộc rõ ràng cùng cơ chế hậu kiểm đủ mạnh và thực chất.

"Mở khoá" tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp 

Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, đặt ra định hướng chiến lược, mục tiêu cụ thể và các giải pháp đột phá nhằm phát huy tối đa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển đất nước.

Một trong những điểm nhấn của Nghị quyết là việc cho phép địa phương sử dụng ngân sách để hỗ trợ chủ đầu tư hạ tầng trong các khu, cụm công nghiệp, thay vì để doanh nghiệp tự gánh toàn bộ chi phí như trước. Đổi lại, chủ đầu tư hạ tầng buộc phải dành một phần quỹ đất đã hoàn thiện hạ tầng để phục vụ nhóm doanh nghiệp mục tiêu, gồm doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tỷ lệ đất dành riêng phải đạt tối thiểu 20ha hoặc 5% tổng diện tích đất sau đầu tư hạ tầng, tùy theo điều kiện thực tế từng địa phương, nhưng không được thấp hơn ngưỡng tối thiểu này. Nói cách khác, chủ đầu tư không còn quyền tự do cho thuê toàn bộ khu đất cho các bên có khả năng chi trả cao hơn, mà buộc phải "giữ chỗ" cho nhóm doanh nghiệp mục tiêu đang rất cần không gian sản xuất.

Ngoài ra, Nhà nước cũng giảm tối thiểu 30% tiền thuê lại đất trong 5 năm đầu cho các đối tượng này, đồng thời hỗ trợ hạ tầng thiết yếu như mặt bằng sạch, điện, nước, giao thông, thông tin và thủ tục hành chính, nhằm giảm chi phí không chính thức và giúp doanh nghiệp tập trung vào sản xuất, nghiên cứu.

Nghị quyết 68-NQ/TW: Gỡ “nút thắt” đất đai, kích hoạt nguồn lực cho doanh nghiệp bứt phá- Ảnh 1.

Tại nhiều địa phương, đất đai và mặt bằng sản xuất luôn trong tình trạng khan hiếm, giá thuê cao ngất ngưởng, khiến các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực này. (Ảnh minh hoạ: Trọng Hiếu)

Nghị quyết 68-NQ/TW hướng tới tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ cao tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất được giới chuyên gia đánh giá tích cực ở nhiều khía cạnh. Bởi trên thực tế trong nhiều năm qua, đất đai và mặt bằng sản xuất mặc dù là yếu tố then chốt quyết định khả năng đầu tư và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy nhiên lại luôn trong tình trạng khan hiếm, giá thuê cao ngất ngưởng, khiến các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực này, dẫn đến không thể mở rộng sản xuất.

TS. Trần Xuân Lượng, Tiến sĩ chuyên ngành Bất động sản, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhìn nhận, quá trình triển khai chính sách tại nhiều địa phương hiện nay đang bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực đất đai, khiến doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng khó tiếp cận mặt bằng sản xuất phù hợp.

Việc nhiều địa phương đang áp dụng mô hình Nhà nước thu hồi đất, sau đó giao cho nhà đầu tư hạ tầng toàn quyền khai thác, định giá và cho thuê lại đất theo cơ chế thị trường làm đẩy giá thuê đất công nghiệp tăng cao. Theo báo cáo của Savills Việt Nam, trong vòng 5 năm trở lại đây, giá thuê đất công nghiệp đã tăng gấp 1,5 - 2 lần. Riêng tại khu vực phía Bắc, mức giá trung bình hiện dao động từ 120 - 150 USD/m2/chu kỳ thuê, gần gấp đôi mức trung bình của các nước ASEAN. Với mức giá này, các doanh nghiệp công nghệ, startup và doanh nghiệp nhỏ vốn có năng lực tài chính hạn chế gần như không thể cạnh tranh với các "ông lớn" FDI trong việc tiếp cận quỹ đất công nghiệp có hạ tầng.

Bên cạnh đó, nhiều nơi thiếu quỹ đất sạch, hạ tầng lại không đồng bộ. Không ít doanh nghiệp phải "mượn tay" một nhà đầu tư lớn rồi quay lại thuê lại chính đất của mình, điều này làm méo mó thị trường và triệt tiêu động lực phát triển.

Thống kê từ Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường chỉ rõ, tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận được với đất đai nằm trong các khu, cụm công nghiệp hiện rất thấp, chỉ khoảng 3% ở nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ, 8% ở doanh nghiệp nhỏ và gần 19% ở doanh nghiệp vừa, thấp hơn đáng kể so với con số 35% của các doanh nghiệp quy mô lớn. Trong khi đó, nhu cầu thuê đất trong khu, cụm công nghiệp của nhóm doanh nghiệp này lại đang rất lớn. Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện vẫn đang tận dụng đất trong khu dân cư, thuê nhà ở làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Thực tế, việc thuê lại trong các khu, cụm công nghiệp của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế vì quy mô các khu đất cho thuê theo quy hoạch xây dựng chi tiết khu, cụm công nghiệp thường không phù hợp với khả năng chi trả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chính vì vậy, theo vị chuyên gia, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với hàng loạt thách thức về năng suất, đổi mới công nghệ, thiếu hụt mặt bằng sản xuất và đặc biệt là sự co cụm của doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bước đi mang tính chiến lược. 

"Tôi hoàn toàn đồng thuận với tinh thần của Nghị quyết 68 cũng như các chính sách đi kèm như Nghị quyết 198/QH. Đây không chỉ đơn thuần là một bước tiến về chính sách, mà là một cuộc cách mạng về thể chế và sâu xa hơn là cuộc cách mạng của niềm tin. Nếu chúng ta không hành động ngay từ hôm nay, thì 20 năm tới, hậu quả sẽ hiện rõ, Việt Nam sẽ rơi vào cái bẫy thu nhập trung bình, tiếp tục là nền kinh tế phụ thuộc vào gia công, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên đất đai", TS. Trần Xuân Lượng nhận định.

Cũng theo TS. Trần Xuân Lượng, Nghị quyết 68 nếu được triển khai đồng bộ và thực chất sẽ không chỉ là đòn bẩy tháo gỡ điểm nghẽn mặt bằng sản xuất, mà còn góp phần hình thành hệ sinh thái công nghiệp mang tính bền vững và nội lực. Nghị quyết sẽ tạo điều kiện nuôi dưỡng doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và startup công nghệ. Khi được hỗ trợ về đất đai, hạ tầng và chi phí ban đầu, các doanh nghiệp này sẽ có cơ hội vượt qua rào cản gia nhập thị trường, từ đó hình thành lực lượng sản xuất mới cho nền kinh tế số. Nếu được thực thi nghiêm túc, đây sẽ là chính sách có sức "giải phóng nguồn lực", không chỉ thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ mà còn góp phần khơi thông dòng chảy đổi mới sáng tạo và công nghệ nội địa. Qua đó, tạo nền tảng để công nghiệp Việt Nam vươn lên làm chủ công nghệ, thay vì chỉ dừng lại ở vai trò gia công đơn thuần.

Cần khung thể chế hỗ trợ cụ thể, minh bạch và thực chất

Dù các mục tiêu trong Nghị quyết 68-NQ/TW đã được xác định rõ ràng, tinh thần chính sách đã đúng hướng, thì điều quan trọng nhất hiện nay chính là khâu thực thi. Đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất khiến nhiều chủ trương, chính sách trước đây chưa thể phát huy hiệu quả như kỳ vọng. Các chuyên gia đều đồng tình rằng, đã đến lúc cần chuyển hóa tinh thần cải cách của Nghị quyết thành hành động cụ thể, thiết thực và có tính khả thi cao, thông qua một loạt giải pháp được triển khai đồng bộ và nhất quán.

Từ thực tiễn đó, TS. Trần Xuân Lượng cho rằng, để Nghị quyết 68 đi vào cuộc sống thực sự tạo ra chuyển biến, cần xây dựng một khung thể chế rõ ràng, minh bạch và có cơ chế giám sát độc lập. 

Nghị quyết 68-NQ/TW: Gỡ “nút thắt” đất đai, kích hoạt nguồn lực cho doanh nghiệp bứt phá- Ảnh 2.

TS. Trần Xuân Lượng, TS chuyên ngành Bất động sản, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Theo đó, các địa phương cần phải công khai quy hoạch sử dụng đất, quỹ đất ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhỏ và công nghệ cao, cũng như điều kiện cụ thể để tham gia. Cơ chế lựa chọn chủ đầu tư hạ tầng cần được mở rộng, không thể chỉ dựa trên năng lực tài chính mà phải tích hợp thêm các tiêu chí về trách nhiệm xã hội, khả năng đồng hành cùng hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ, đổi mới sáng tạo và công nghiệp hỗ trợ. Ưu tiên nên dành cho những nhà đầu tư có năng lực thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ phát triển bền vững, tạo ra giá trị lan tỏa cho toàn khu vực.

Đặc biệt, TS. Lượng nhấn mạnh, cần luật hóa nghĩa vụ dành quỹ đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo mô hình đã áp dụng thành công với nhà ở xã hội. Việc này phải được luật hóa để đảm bảo tính bắt buộc, không mang tính khuyến khích chung chung. Giá thuê cần ưu đãi, minh bạch, đi kèm hạ tầng thiết yếu như điện, nước, viễn thông.

Để tránh tình trạng ưu đãi bị "trao nhầm tay", theo ông Lượng, các bộ, ngành liên quan cũng cần ban hành bộ tiêu chí thống nhất và rõ ràng về khái niệm "doanh nghiệp công nghệ cao", "doanh nghiệp sáng tạo", "doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ"… Việc xác định đúng đối tượng sẽ là chìa khóa để chính sách phát huy hiệu quả. Không thể để những ưu đãi bị biến tướng thành đặc quyền cho nhóm thân hữu, hay bị lợi dụng cho mục đích trục lợi. Chỉ khi chính sách đến đúng tay người cần, hỗ trợ đúng điểm nghẽn, lúc đó, cả "chim sẻ" lẫn "đại bàng" mới có thể cùng cất cánh, đóng góp cho một nền kinh tế năng động và công bằng hơn. 

Bên cạnh đó, TS. Trần Xuân Lượng cũng cho rằng, việc thực thi Nghị quyết 68 phải song hành với các cơ chế hậu kiểm, công khai và truy xuất thông tin để đảm bảo rằng 5% hay 20ha đất ưu đãi được sử dụng đúng mục tiêu. Việc lách luật, cho thuê lại với giá cao hoặc liên danh trá hình cần bị xử lý nghiêm. Ngoài ra, cần chuyển tư duy hỗ trợ từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm", tức giảm bớt rào cản thủ tục ban đầu, nhưng tăng cường giám sát quá trình hoạt động sau khi doanh nghiệp đi vào vận hành. Các gói hỗ trợ cũng cần cụ thể và thực chất hơn, chẳng hạn như cho thuê đất trả góp trong 5 - 10 năm; hỗ trợ hạ tầng thiết yếu như PCCC, giao thông kết nối, bảo vệ môi trường; miễn/giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian đầu; hỗ trợ chi phí đăng ký sở hữu trí tuệ và chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp. 

"Bài học từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore cho thấy, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ chỉ thực sự hiệu quả khi được thiết kế gắn với quy hoạch đất đai minh bạch, công cụ tài chính ưu đãi và cơ chế hậu kiểm mạnh. Tại Nhật Bản, chính phủ sử dụng tổ chức JETRO làm đầu mối hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ từ khâu gọi vốn, sản xuất thử nghiệm đến mở rộng thị trường quốc tế. Hàn Quốc thì xây dựng các khu công nghiệp vệ tinh dành riêng cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đi kèm gói ưu đãi tài chính dài hạn. Trong khi đó, Singapore triển khai mô hình hậu kiểm hiệu quả, chỉ cần doanh nghiệp đăng ký trực tuyến, sẽ được phê duyệt trong 1-2 ngày, sau đó Nhà nước kiểm soát qua báo cáo định kỳ. Môi trường minh bạch, linh hoạt và trách nhiệm, đó là điều Việt Nam có thể học hỏi", TS. Trần Xuân Lượng lấy ví dụ.

Cùng quan điểm, TS. Huỳnh Thanh Điền, chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, chuyển hóa tinh thần cải cách của Nghị quyết thành hành động cụ thể, nhằm tránh thất thoát nguồn lực và đảm bảo hiệu quả đầu tư, cần tăng cường công tác giám sát và gắn trách nhiệm cụ thể với nhà đầu tư. "Nhà nước đã bỏ tiền hỗ trợ thì nhà đầu tư phải có nghĩa vụ rõ ràng như thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, cho thuê đúng đối tượng. Hình thức hỗ trợ nên thể hiện bằng hợp đồng ràng buộc giữa nhà nước và chủ đầu tư, trong đó nêu rõ nghĩa vụ đôi bên. Nguyên tắc chung là ngân sách nhà nước bỏ ra phải tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội rõ ràng, có tác động lan tỏa, không thể chỉ mang lợi ích cho một cá nhân hay nhóm lợi ích nào", ông Điền đề xuất.

Nghị quyết 68-NQ/TW: Gỡ “nút thắt” đất đai, kích hoạt nguồn lực cho doanh nghiệp bứt phá- Ảnh 3.

TS. Huỳnh Thanh Điền, chuyên gia kinh tế.

Góp ý kỹ hơn về hình thức triển khai, TS. Huỳnh Thanh Điền cho rằng, trước đây, Nhà nước thường hỗ trợ đầu tư theo hình thức trực tiếp, tức là dùng ngân sách để chi trả cho từng hạng mục cụ thể của dự án. Tuy nhiên, ngoài cách làm này, nên mở rộng thêm các hình thức hỗ trợ gián tiếp để linh hoạt và hiệu quả hơn.

"Khi nhà đầu tư tự bỏ vốn hoặc vay ngân hàng để xây dựng hạ tầng, Nhà nước có thể hỗ trợ bằng cách chia sẻ chi phí lãi vay, ví dụ, hỗ trợ 50% lãi suất, tùy vào điều kiện và khả năng. Ngoài ra, thay vì thu tiền sử dụng đất ngay từ đầu, Nhà nước có thể cân nhắc miễn hoặc giảm khoản thu này, đặc biệt trong trường hợp dự án mang ý nghĩa kinh tế - xã hội lớn. Bên cạnh đó, cũng có thể kéo dài thời gian miễn hoặc giảm thuế để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển bền vững", TS. Huỳnh Thanh Điền đề xuất

Đặc biệt, để tăng tính chủ động và linh hoạt, theo vị chuyên gia, các địa phương nên chủ động thành lập một quỹ riêng, tương tự như Quỹ phát triển hạ tầng khu công nghiệp thay vì sử dụng ngân sách nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp như trước đây, vì hình thức này phải tuân thủ Luật Ngân sách với nhiều thủ tục phức tạp và thiếu linh hoạt. Quỹ này có thể hình thành từ 2 nguồn, một phần vốn "mồi" từ ngân sách nhà nước và phần còn lại huy động theo hình thức xã hội hóa. Ngoài ra, địa phương có thể trích một phần từ tiền sử dụng đất do nhà đầu tư nộp để bổ sung cho quỹ.

"Ưu điểm của cách làm này là quỹ sẽ hoạt động theo cơ chế riêng, không bị ràng buộc bởi các quy định của Luật Ngân sách. Nhờ đó, địa phương có thể linh hoạt hơn trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, rút gọn được nhiều quy trình phức tạp và phản ứng nhanh với nhu cầu thực tế của thị trường", TS. Huỳnh Thanh Điền cho biết.


Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top