Nhiều nút thắt cần tháo gỡ
Phát biểu tại tọa đàm Nhận diện xu hướng mới trong phát triển khu công nghiệp diễn ra mới đây, ông Vũ Anh Tú, Vụ phó Vụ Quy hoạch - Kiến trúc (Bộ Xây dựng) cho hay, Việt Nam hiện tồn tại 2 mô hình đầu tư khu công nghiệp chủ yếu. Thứ nhất là đầu tư hạ tầng kỹ thuật để kêu gọi các nhà đầu tư vào thuê đất tổ chức sản xuất kinh doanh. Thứ hai là mô hình được đầu tư đồng bộ thành một khu công nghiệp, đến giai đoạn sản xuất ra sản phẩm.
Theo ông Tú, với khu công nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các dịch vụ lưu trú và các dịch vụ khác đối với người lao động phụ thuộc vào lộ trình đầu tư. Hoạt động này do không kịp thời đáp ứng nên dẫn đến vấn đề bất cập trong giải quyết nhà ở công nhân, đặc biệt khi xảy ra những tình huống như trong đại dịch Covid-19 vừa qua.
Ông Tú nhìn nhận, tại giai đoạn đầu phát triển, Việt Nam cần thiết phải hình thành nhanh các khu công nghiệp phù hợp với nhu cầu tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhiều nhất có thể. Đó là những khu công nghiệp mang tính “may sẵn”. Mô hình này sẽ không còn phù hợp khi trình độ phát triển, trình độ sản xuất đã dần được nâng cao hơn. Do đó, trước hết phải xác định được nhu cầu, xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp chứ không thể làm sẵn để chờ đợi, thụ động.
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Shinec, đơn vị đang triển khai dự án khu công nghiệp Nam Cầu Kiền cho biết, các nhà đầu tư hiện nay rất quan tâm đến yếu tố xanh, phát triển bền vững để sẵn sàng hội nhập, tham gia vào các Hiệp định Thương mại thế hệ mới như EVFTA, CPTPP. Theo đó, đơn vị này đang tiếp tục nghiên cứu, thành lập đề tài về Nam Cầu Kiền thành hình mẫu khu công nghiệp thân thiện giúp các nhà quản lý hiểu rõ bản chất của khu công nghiệp sinh thái mới ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Điệp cho biết, hiện có nhiều khó khăn mà doanh nghiệp cần phải giải quyết được trước mắt.
“Chúng ta chưa tích hợp giữa các luật với nhau như Luật Đầu tư, Luật Đất đai, mà khó nhất là Luật Đất đai. Ví dụ, Luật Đầu tư cho phép miễn giảm thuế nhưng Luật Thuế lại không. Hoặc Luật Xây dựng, nếu định dạng khu công nghiệp đô thị, sinh thái nhưng Nghị định 82 lại đưa ra quy định khu công nghiệp phải có điều kiện hạ tầng tốt, dịch vụ thiết yếu cho người lao động, mà các dịch vụ này lại vi phạm Luật Nhà ở, Luật Xây dựng. Chỗ nào cũng vướng, doanh nghiệp rất khổ. Đặc biệt, dịch Covid-19 bùng phát đã cho thấy một thực tế rằng, lao động, công nhân không có nhà ở thì họ không thể yên tâm sản xuất, kinh doanh, nguy cơ sau dịch sẽ thiếu lao động”, vị đại diện doanh nghiệp khẳng định.
Vì thế, ông Điệp cho rằng, muốn thu hút được các nhà đầu tư xây dựng khu công nghiệp thì tất cả các Luật phải tích hợp được với nhau.
Bên cạnh đó, vị này cho biết, Nghị định 82 quy định các tỉnh/thành phố phải lấp đầy khu công nghiệp trên 60% mới được tiếp tục xin dự án khu công nghiệp mới. Nhưng mỗi doanh nghiệp đầu tư hạ tầng có một cách làm, thu hút khác nhau. Nếu doanh nghiệp không làm được thì đã có luật yêu cầu thu hồi. Quy định vậy đang ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp và việc phát triển hạ tầng của thành phố.
Nói thêm về các khó khăn của doanh nghiệp phát triển khu công nghiệp, bà Vũ Thu Hằng, Giám đốc kinh doanh TNI Holdings Việt Nam cho biết, một vấn đề cần được xem là điểm nóng hiện nay đối với các chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp là giải phóng mặt bằng.
“Với quỹ đất rất lớn của khu công nghiệp, chúng tôi bắt buộc phải đền bù theo giai đoạn, cũng như chia nhỏ thành từng phần, nhưng bởi vì hành lang pháp lý cũng như quy trình đền bù giải phóng mặt bằng hiện nay còn rất nhiều vướng mắc, dẫn đến việc phải kéo dài tiến trình.
Việc kéo dài tiến trình giải phóng mặt bằng và các thủ tục pháp lý để đảm bảo quỹ đất sạch cho nhà đầu tư là những thách thức và tạo áp lực rất lớn. Điều này trước hết ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình hoạch định kinh doanh của chúng tôi. Thứ hai là giảm những niên hạn còn lại cho nhà đầu tư dẫn đến giảm giá trị của khu công nghiệp. Ba là khiến chúng tôi đánh mất đi rất nhiều thời cơ, đặc biệt trong thời gian vừa qua, dù có nhiều đơn hàng, nhà đầu tư đến nhưng chính vì không thể đảm bảo đúng tiến độ về giải phóng mặt bằng, quỹ đất sạch mà đã đánh mất nhiều cơ hội”, bà Hằng bày tỏ.
Đồng tình với vấn đề này, TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, thực tế có những dư án đầu tư mới có quy mô 200 - 300 triệu USD muốn vào Việt Nam, nhưng lại không có “đất sạch” sẵn sàng cho họ xây dựng nhà máy, muốn có thì phải chờ rất lâu, dẫn đến bỏ phí cơ hội.
Vị chuyên gia cũng cho rằng, việc phát triển các khu công nghiệp từ chính sách đến thực tiễn còn khoảng cách rất xa, cũng như thiếu việc “tích hợp” giữa các luật với nhau. Đây là câu chuyện được bàn tới quá nhiều nhưng vẫn chưa biến chuyển, đã hạn chế rất nhiều tiềm năng phát triển của đất nước.
“Chính sách phải gắn với quy hoạch, quy hoạch thể hiện chính sách, đừng ra một chính sách mà 3 - 4 năm sau không thể triển khai được, hoặc ảnh hưởng đến các quy định hiện có”, TS. Phan Hữu Thắng nhận định.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, hình thành mô hình khu công nghiệp mới
Trong những năm qua, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút được 9.381 dự án đầu tư nước ngoài (FDI), với tổng số vốn đầu tư đạt 191,6 tỷ USD.
Hoạt động của các khu công nghiệp rất sôi động, tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt khoảng 75%. Thời gian tới, theo quy hoạch, sẽ có thêm nhiều diện tích đất để “chào đón” các dự án đầu tư mới. TS. Phan Hữu Thắng đánh giá, nguồn vốn FDI “chảy” vào Việt Nam ngày càng tăng, chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới Việt Nam. Tuy nhiên, thách thức của Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI là các quốc gia trong khu vực cũng đang nỗ lực thu hút nguồn vốn này. Do đó, để thu hút các dòng vốn FDI hơn nữa, Việt Nam phải nỗ lực giảm thiểu các hạn chế đang tồn tại ở các khu công nghiệp.
Vị chuyên gia cho biết, Việt Nam đang đẩy mạnh các hoạt động thu hút, xúc tiến đầu tư theo Nghị quyết số 50 (ngày 20/8/2019) của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Trong đó, phát triển các mô hình khu công nghiệp mới, ưu tiên các dự án dự án có công nghệ hiện đại, có hàm lượng tri thức cao, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, có sản phẩm mang lợi thế cạnh tranh, ít sử dụng đất.
Cũng theo ông thắng, các mô hình khu công nghiệp mới sẽ được triển khai theo hình thức “may đo” thay vì “may sẵn” như trước đây. Nghĩa là áp dụng từng mô hình phù hợp cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề quy hoạch đối với mô hình khu công nghiệp mới, khu công nghiệp sinh thái… lại chưa xác định được phát triển bao nhiêu khu công nghiệp kiểu mới này là đủ, phát triển ở địa phương nào… để tập hợp các nguồn lực tốt cho phát triển.
Vị chuyên gia cho biết thêm, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị rà soát toàn bộ những quy định hiện hành liên quan đến đầu tư, doanh nghiệp, nhằm tạo một “luồng gió mới” trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong đó, chú trọng phương thức đa phương hoá, đa dạng hoá.
“Định hướng phát triển trong thời gian tới là hoàn thiện cơ chế chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài, nâng lên mức cân bằng, có thảo luận của hai bên. Xây dựng hình thành các khu công nghiệp mới, khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp phụ trợ, khu nông nghiệp công nghệ cao…”, ông Thắng khẳng định.
Ông Vũ Anh Tú, Vụ phó Vụ Quy hoạch - Kiến trúc, Bộ Xây dựng cũng cho rằng, đến giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần tập trung tạo ra các khu công nghiệp tương tự như những sản phẩm mang tính “may đo”. Tức là phát triển các mô hình khu công nghiệp chuyên ngành, khu công nghiệp đa chức năng.
Ông Tú cho hay, mô hình khu công nghiệp đa chức năng (khác với đa ngành), là mô hình thể hiện lối sống công nghiệp mới (sống, làm việc, nghỉ ngơi đồng bộ và chất lượng) để dần thay thế cho mô hình các khu công nghiệp hiện nay của Việt Nam vẫn chủ yếu “đơn chức năng”, chủ yếu hướng tới mục tiêu tập trung sản xuất, còn nhà ở chỉ mang tính phục vụ sản xuất.
Cũng theo vị này, mô hình khu công nghiệp đa chức năng được đề xuất cần dựa trên 5 yếu tố: Văn hóa, trình độ lao động, nhu cầu hội nhập, công nghệ sản xuất và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, để hiện thực hóa, cần phải có cơ sở từ quy định pháp luật một cách cụ thể. Mô hình này thực chất tương đối gần với mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ như đã quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP.
“Ở Việt Nam, pháp luật quản lý phát triển khu công nghiệp đã được ban hành tương đối đầy đủ, phù hợp với từng giai đoạn. Các quy định qua từng thời kỳ đều được bổ sung điều chỉnh, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định. Tuy nhiên, các quy định vẫn còn chưa hoàn toàn giải quyết đầy đủ các khía cạnh của thực tiễn phát triển khu công nghiệp. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về phát triển khu công nghiệp để đáp ứng nhu cầu, phù hợp với xu hướng phát triển mới”, ông Vũ Anh Tú khẳng định.
Theo đó, để nâng cao chất lượng phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam theo những mô hình hiệu quả, không bỏ lỡ cơ hội từ những nhà đầu tư tiềm năng, Vụ phó Vụ Quy hoạch - Kiến trúc (Bộ Xây dựng) đã đưa ra 3 đề xuất giải pháp.
Thứ nhất, tiếp tục rà soát hoàn thiện bổ sung chính sách, văn bản pháp luật đảm bảo gắn đồng bộ quy hoạch phát triển khu công nghiệp gắn với phát triển khu đô thị trong một phương án tổng thể, tạo một hệ sinh thái; thống nhất giữa các quy hoạch quốc gia gắn với phát triển kinh tế địa phương.
Thứ hai, rà soát, hoàn thiện bổ sung quy định pháp luật về đầu tư xây dựng khu công nghiệp phù hợp với từng loaị hình sản xuất và yêu cầu phát triển từng thời kỳ.
Thứ ba, xây dựng hoàn thiện tiêu chí, tiêu chuẩn về quy mô, cơ cấu sử dụng đất, hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghiệp phù hợp với từng loại hình sản xuất, theo yêu cầu phát triển. Điều này đồng nghĩa với việc quy định rõ các mô hình phát triển khu công nghiệp để làm cơ sở "dẫn dắt" trong tổ chức thực hiện.