Cầu tiêu dùng trong nước đang có xu hướng thắt chặt
Trình bày báo cáo tại Hội nghị Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp do Chính phủ tổ chức, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú cho rằng, thời gian qua, trước bối cảnh các kênh huy động vốn khác chưa thực sự phát huy hiệu quả, nhất là thị trường vốn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) đang tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế đã khiến nhu cầu vốn cho phục hồi kinh tế tập trung phần lớn qua kênh tín dụng ngân hàng, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Đặc biệt từ năm 2020, tuy có dấu hiệu tăng chậm lại trong năm 2022 những vẫn trong xu hướng tăng, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống các TCTD.
Theo NHNN, trong bối cảnh thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng dư thừa và còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng tín dụng (toàn hệ thống còn khoảng 9% để tăng trưởng tín dụng, tương đương khoảng 1 triệu tỷ đồng), lãi suất cho vay có xu hướng giảm, từ đó tổ chức tín dụng có điều kiện thuận lợi để cung ứng vốn tín dụng đối với nền kinh tế.
“Do đó, tăng trưởng tín dụng thời gian qua chưa cao không phải xuất phát từ nguyên nhân thanh khoản hệ thống ngân hàng”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú đánh giá.
Cũng theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn thấp so với cùng kỳ các năm trước, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các yếu tố khách quan như:
Thứ nhất, do tác động của cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng.
Cụ thể, đối với cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh giảm, dẫn tới cầu tín dụng cho sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp giảm tương ứng. Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào kinh tế quốc tế, trong khi bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp; tăng trưởng toàn cầu thấp, một số quốc gia, đối tác lớn tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất, gia tăng hàng rào bảo hộ; các thị trường, đơn hàng, đơn giá xuất khẩu trong những tháng đầu năm 2023 sụt giảm; các doanh nghiệp chưa kịp phục hồi hoàn toàn sau đại dịch Covid-19, cùng với ảnh hưởng tiêu cực của suy giảm kinh tế trên phạm vi toàn cầu nên nhu cầu vay vốn và khả năng hấp thụ vốn giảm sút.
Cũng theo NHNN, mặc dù các chỉ số kinh tế trong nước đang có xu hướng diễn biến tích cực (như: xuất nhập khẩu tháng 8 tăng 6,7% so với tháng 7, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tăng 2,9%...) song do ảnh hưởng dồn tích từ thị trường trong những tháng đầu năm nên tín dụng đến cuối tháng 8 vẫn thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước.
Đặc biệt, đối với cầu tiêu dùng, trong những tháng đầu năm 2023, cầu tiêu dùng trong nước có xu hướng thắt chặt, đặc biệt là các khoản chi tiêu không thiết yếu. Bên cạnh đó, ảnh hưởng từ thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, sự sụt giảm các đơn hàng của các doanh nghiệp ở một số ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, điện tử... đã khiến cho số lượng lao động nghỉ, giãn/mất việc tăng lên, dẫn tới sụt giảm cầu tiêu dùng cũng như cầu tín dụng tiêu dùng, phục vụ đời sống.
Được biết, mặc dù nhu cầu tiêu dùng đang tăng trở lại, song vẫn thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước (tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 tăng 7,6% so với cùng kỳ 2022, trong khi tháng 8/2022 tăng 50,2% so với cùng kỳ 2021); dẫn tới cầu tín dụng phục vụ tiêu dùng thấp hơn cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân thứ hai được NHNN đưa ra, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm DNNVV. Việc tiếp cận tín dụng của nhóm này còn hạn chế do:
(i) Quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế;
(ii) Thiếu phương án kinh doanh khả thi, chưa có kế hoạch ứng phó với biến động thị trường, khả năng liên kết với chuỗi sản xuất còn hạn chế;
(iii) Thông tin về tình hình tài chính của DNNVV còn thiếu minh bạch làm ảnh hưởng đến khả năng thẩm định của TCTD để đánh giá thực chất tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
(iv) Việc triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua các cơ chế hỗ trợ của nhà nước (Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV...) còn chưa phát huy hiệu quả.
Nguyên nhân thứ ba được cho là tới từ tác động từ khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm bấtđộng sản.
Cụ thể, tín dụng bất động sản chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tín dụng chung nên khi tín dụng bất động sản tăng cao sẽ kéo theo tín dụng toàn hệ thống tăng. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2023, tín dụng bất động sản tăng 4,68% (thấp hơn 0,05% so với tăng trưởng tín dụng chung là 4,73%). Trong đó dư nợ kinh doanh bất động sản trong 6 tháng đầu năm 2023 đã tăng trưởng (17,41%) vượt tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022 (10,73%) đây là mức tăng trưởng rất cao (gấp gần 04 lần tăng trưởng tín dụng chung) nhưng dư nợ tiêu dùng, tự sử dụng bất động sản chiếm đến 65% dư nợ tín dụng bất động sản lại giảm 1,12% (năm đầu tiên xuất hiện xu hướng giảm trong 03 năm gần đây, cuối năm 2022 tăng 31,01%).
Điều này đã cho thấy, nguồn vốn tín dụng đang tập trung vào phía cung của thị trường, trong khi đó cầu tín dụng để mua bất động sản với mục đích tiêu dùng, tự sử dụng của thị trường đang sụt giảm.
Có thể thấy, trước sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các thị trường vừa qua cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng khi các khó khăn về mặt pháp lý của các dự án bất động sản đã dần được tháo gỡ, góp phần tăng khả năng tiếp cận tín dụng của chủ đầu tư dự án.
Tuy nhiên, theo NHNN, trong bối cảnh khó khăn chung, nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu được khách hàng ưu tiên trong thời điểm hiện tại; cơ cấu sản phẩm không hợp lý, dư thừa sản phẩm, phân khúc cao cấp, thiếu nhà ở giá rẻ, phù hợp với nhu cầu của người dân; các dự án bấtđộng sản gặp khó khăn về mặt pháp lý nên không đáp ứng được điều kiện tín dụng dẫn tới khó tiếp cận nguồn vốn.
Bên cạnh đó cũng cần lưu ý về tỷ lệ nợ xấu của lĩnh vực bất động sản đang có chiều hướng gia tăng so với thời điểm cuối năm trước (tháng 6/2022 là 1,53%, tháng 6/2023 là 2,47%).
Nguyên nhân thứ tư được NHNN chỉ ra đó là, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...) nên TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay do không hạ được chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.
Nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu được khách hàng ưu tiên trong thời điểm hiện tại
Nhấn mạnh tới Chương trình 120.000 tỷ đồng, ông Đào Minh Tú cho rằng, bước đầu triển khai đã cho thấy một số khó khăn, vướng mắc.
Cụ thể, hiện nay một số địa phương đã có văn bản gửi NHNN và Bộ Xây dựng hoặc thông báo trên cổng thông tin điện tử về danh mục nhà ở xã hội đủ điều kiện tham gia chương trình. Tuy nhiên, qua rà soát thì trong danh mục có một số dự án chưa đủ điều kiện, một số địa phương giao cho Sở Xây dựng ban hành danh mục chưa đúng thẩm quyền; bên cạnh đó, nhiều địa phương còn đang trong quá tình tổng hợp danh mục dự án và nhu cầu của chủ đầu tư dự án, chưa công bố danh mục này. Do đó, các NHTM chưa có cơ sở để tiếp cận, thẩm định dự án.
Cùng với đó, theo NHNN, khách hàng mua nhà ở tại các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, mua nhà tại dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ bị ảnh hưởng do tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh khó khăn dẫn đến nguồn thu nhập của khách hàng sụt giảm. Do đó, nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu được khách hàng ưu tiên trong thời điểm hiện tại.
Ngoài ra, chỉ một số ít chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn, các dự án còn lại đã hoàn thành xây dựng, hoặc được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, hoặc không có nhu cầu vay vốn. Đối với đối tượng người mua nhà ở xã hội hiện vẫn có thể vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội với mức lãi suất ưu đãi (hiện nay là 4,8%/năm) theo quy định tại Nghị định 100/2015/NĐ-CP.
Đặc biệt, đối với chính sách HTLS, NHNN cho biết, căn cứ theo Nghị định 31, kết quả HTLS còn thấp, chưa đạt được như kỳ vọng. Nguyên nhân được chỉ ra là do: Khách hàng không đáp ứng đối tượng được HTLS (ví dụ như khách hàng hộ kinh doanh không có đăng ký kinh doanh,...); khách hàng đáp ứng điều kiện HTLS nhưng lại có tâm lý e ngại công tác hậu kiểm; khó đánh giá về khả năng “phục hồi” trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều yếu tố rủi ro, bất định; một số khách hàng lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ nên không thuộc đối tượng được HTLS; bối cảnh kinh tế - xã hội đã thay đổi so với khi ban hành chính sách nên nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp thay đổi...
Vì vậy, hiện nay, NHNN đang theo dõi, triển khai một số chương trình tín dụng tru đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nguồn hỗ trợ đối với các chương trình này là từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là hạn chế và trong giai đoạn 2021- 2025, ngân sách nhà nước không bố trí kế hoạch vốn đầu tư công để cấp bù lãi suất cho các ngân hàng thương mại đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng (ngoại trừ chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP)./.