Việc huy động khu vực kinh tế tư nhân tham gia sâu rộng vào chuyển dịch xanh có ý nghĩa then chốt
Đó là khẳng định của PGS.TS. Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng, tại Diễn đàn phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững, do Tạp chí Môi trường và Cuộc sống tổ chức sáng 15/8.
Theo PGS.TS. Bùi Thị An, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Khu vực này hiện đóng góp khoảng trên 50% GDP và là khu vực tạo việc làm lớn nhất. Nghị quyết 68 đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân đóng góp 55 - 58% GDP, tốc độ tăng trưởng bình quân 10 - 12%/năm và hình thành đội ngũ doanh nghiệp dân tộc đủ năng lực vươn ra khu vực và toàn cầu.
Vai trò của kinh tế tư nhân trong sự phát triển đất nước đã được nhận thức rõ. Đây là một "luồng gió mới" rất quan trọng, để kinh tế tư nhân có được nền tảng thể chế thuận lợi. Muốn bảo đảm an sinh xã hội thì trước hết phải có việc làm ổn định cho người dân, và kinh tế tư nhân chính là một trụ cột quan trọng để thực hiện điều đó.
Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, việc huy động khu vực kinh tế tư nhân tham gia sâu rộng vào chuyển dịch xanh có ý nghĩa then chốt.

PGS.TS. Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng. (Ảnh: BTC)
Trong đó, các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chủ lực trong đổi mới công nghệ, tài trợ xanh và xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, bảo vệ môi trường - là những trụ cột của mô hình phát triển mới. Khi các quốc gia trên thế giới đang đầu tư vào chuyển dịch năng lượng và công nghệ sạch một cách mạnh mẽ, các chuẩn mực báo cáo phát triển bền vững (như IFRS S1/S2, CSRD) được áp dụng rộng rãi và các cơ chế định giá carbon ngày càng phổ biến, thì vai trò của doanh nghiệp tư nhân càng trở nên rõ ràng, theo PGS.TS. Bùi Thị An.
Mặc dù vậy, doanh nghiệp tư nhân trong tiến trình chuyển đổi xanh đang gặp nhiều rào cản. Thách thức lớn nhất là chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ sạch quá cao, trong khi khả năng tiếp cận tín dụng xanh còn hạn chế.
Ngoài ra, năng lực quản trị ESG, cũng như khả năng đo lường và báo cáo phát thải của doanh nghiệp Việt, đặc biệt là khối nhỏ và vừa, vẫn còn hạn chế. Cùng với hệ thống pháp lý chưa đồng bộ, thiếu dữ liệu và hạ tầng hỗ trợ kinh tế tuần hoàn, khiến doanh nghiệp gặp không ít khó khăn khi chuyển đổi xanh.
TS. Nguyễn Đình Tiến, Trưởng Bộ môn Kinh tế Tài nguyên và Bất động sản, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đồng tình, năng lực quản trị ESG của doanh nghiệp Việt còn hạn chế, kể cả ở khu vực công lẫn tư. Việc đo lường và báo cáo phát thải chưa đáp ứng yêu cầu minh bạch, trong khi đối tác quốc tế có thể dễ dàng đối chiếu và phát hiện sai lệch.
Bên cạnh đó, nhiều chính sách dành cho kinh tế xanh hiện nay khá rộng và được thiết kế tốt, song khâu thực hiện vẫn là thách thức lớn do thiếu công nghệ, nguồn lực.
Đơn cử, để chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh, doanh nghiệp buộc phải đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ sạch rất cao, trở thành gánh nặng lớn, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ. TS. Nguyễn Đình Tiến dẫn chứng, trong kinh tế tuần hoàn, phế thải của ngành công nghiệp có thể trở thành nguyên liệu đầu vào của lĩnh vực khác. Nhưng để đạt được điều này, doanh nghiệp cần thay đổi dây chuyền, công nghệ sản xuất, là điều không dễ dàng trong bối cảnh nguồn lực hạn chế.
Để tăng trưởng xanh, doanh nghiệp không thể đi một mình
Trên tinh thần Nghị quyết 68, PGS.TS, Bùi Thị An đưa ra một số khuyến nghị chính sách để doanh nghiệp thuận lợi hơn trong quá trình chuyển dịch sang tăng trưởng xanh. Trước hết, cần đồng thời hoàn thiện khung ưu đãi thuế và tín dụng cho các dự án giảm phát thải; kết hợp xây dựng Quỹ bảo lãnh tín dụng xanh giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng tiếp cận vốn.
"Không có vốn thì không thể làm gì, phải có tiền để đầu tư công nghệ, thu hút nhân tài, từ đó mới tạo được đột phá", bà An khẳng định.
Cùng với đó, thị trường điện cạnh tranh và cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) cần sớm đi vào vận hành, tạo điều kiện để doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua điện tái tạo dài hạn với giá ổn định; khuyến khích đổi mới sáng tạo thông qua cơ chế "sandbox" cho các công nghệ mới như lưu trữ năng lượng, hydrogen xanh hay tín chỉ carbon chất lượng cao.
Các tiêu chí, nhãn và chứng nhận "xanh" cũng cần được chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế, đi kèm cơ chế công nhận lẫn nhau với những thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, nhằm giúp hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp Việt đáp ứng chuẩn toàn cầu. Song song với đó, là việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn thông qua áp dụng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), ưu đãi cho công nghệ tái chế, phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái và hệ thống logistics tuần hoàn.
Bà An cũng nhấn mạnh, năng lực báo cáo phát thải và quản trị ESG phải được nâng cao, trong đó các công cụ MRV số hóa cần được phổ cập để doanh nghiệp thuận lợi đo lường, giám sát và báo cáo theo chuẩn quốc tế.
Đặc biệt, khi đã hội nhập sâu rộng, doanh nghiệp không thể đi một mình, mà phải chuẩn hóa quy trình, tiêu chuẩn để đồng bộ với thế giới. Muốn phát triển bền vững và đi xa, sự liên minh giữa khu vực công và tư là yếu tố không thể thiếu.
Đồng thời, doanh nghiệp cần biết nắm bắt thời cơ, khi phát triển xanh đang được Đảng và Nhà nước xem là đột phá, đóng góp bền vững cho kỷ nguyên tăng trưởng "hai con số".

Ông Dương Duy Hưng, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương. (Ảnh: BTC)
Ông Dương Duy Hưng, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cũng nhấn mạnh, các doanh nghiệp cần phải xem chuyển đổi xanh là vì lợi ích của doanh nghiệp, chứ không phải gánh nặng, và cần chung tay với cơ quan quản lý Nhà nước để Nghị quyết 68 thực sự đi vào cuộc sống.
"Thực tế, doanh nghiệp vẫn thường kêu khó ở khâu này, khâu kia, nhưng trong quá trình chúng tôi xây dựng chính sách, nhiều vướng mắc lại chưa được phản ánh kịp thời và đầy đủ. Tôi cho rằng doanh nghiệp cần chủ động đối thoại trực tiếp với cơ quan quản lý, thay vì "gửi" qua các kênh trung gian. Quan điểm của chúng tôi là sẵn sàng hỗ trợ hết mức cho sự phát triển của doanh nghiệp", ông Hưng khẳng định.
Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp cũng chỉ ra, ý thức tuân thủ pháp luật và tính chủ động của một bộ phận doanh nghiệp chưa cao. Do đó, cần thẳng thắn nhìn nhận vấn đề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và năng lực quản trị, để có thể đóng góp thực chất vào quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách, biến các mục tiêu của Nghị quyết 68 thành những giải pháp cụ thể, sát với nhu cầu thị trường.
Trong bối cảnh thế giới biến động, ông Hưng khuyến nghị doanh nghiệp cần định hướng sản xuất - kinh doanh và đầu tư bền vững. Như ở Nhật Bản, phần lớn doanh nghiệp khởi đầu rất nhỏ, nhưng phát triển sâu, tỉ mỉ, đi từng bước chắc chắn và liên kết chặt chẽ trong hệ sinh thái. Đây là kinh nghiệm quý để doanh nghiệp Việt rà soát lại kế hoạch, nâng chuẩn quản trị và tăng cường liên kết.
"10 - 15 năm trước, có thể tạm xem tăng trưởng xanh là "mốt", nhưng bây giờ, đó là yêu cầu tất yếu, là lợi ích rõ ràng về chi phí, thị trường và uy tín quốc tế. Doanh nghiệp hãy bình tĩnh làm từng chút một, kỹ càng. Nhất là trong quá trình xây dựng các mô hình sandbox, Nhà nước rất cần những đề xuất cụ thể từ doanh nghiệp. Nếu muốn chính sách phù hợp, không có cách nào khác ngoài việc doanh nghiệp phải lên tiếng", ông Hưng kết luận./.