
Tập đoàn Công nghệ CMC và những nỗ lực bền bỉ khẳng định năng lực công nghệ Việt
Hơn 3 thập kỷ hoạt động, Tập đoàn Công nghệ CMC (CMC) đã vươn lên trở thành một trong những trụ cột công nghệ hàng đầu Việt Nam, khẳng định vị thế trên thị trường với các sản phẩm, dịch vụ và giải pháp công nghệ vượt trội.
Nếu hơn ba thập kỷ trước, CMC chỉ là một tập thể nhỏ gồm 20 kỹ sư với khát vọng làm chủ công nghệ, thì nay, khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số toàn diện, Tập đoàn một lần nữa cho thấy khát vọng không ngừng khi là doanh nghiệp tư nhân tiên phong sẵn sàng nhận lãnh trọng trách quốc gia: Phát triển nền tảng điện toán đám mây CMC Cloud và kiến tạo hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo Việt - C.OpenAI.
Trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc cạnh tranh mới về dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, việc CMC đảm nhận vai trò kiến tạo hạ tầng số cốt lõi cho đất nước không chỉ cho thấy năng lực nội tại, mà còn khẳng định niềm tin của Nhà nước vào doanh nghiệp tư nhân - lực lượng tiên phong dẫn dắt tiến trình số hóa nền kinh tế.
❃ ❃ ❃
Tổng Bí thư Tô Lâm trao biểu trưng Nhiệm vụ quốc gia Chuyển đổi số cho Chủ tịch CMC Nguyễn Trung Chính tại Diễn đàn quốc gia Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ VI với chủ đề "Làm chủ công nghệ số, làm chủ quá trình chuyển đổi số Việt Nam bằng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam".
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành quả to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên hành trình phát triển kinh tế - xã hội. Thế và lực của đất nước đang không ngừng được củng cố, quy mô nền kinh tế mở rộng, sức cạnh tranh và tính tự chủ được nâng cao.
Trong dòng chảy phát triển ấy, nhận thức về vai trò của khoa học công nghệ và công nghiệp số ngày càng rõ nét, Đảng và Nhà nước đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ khi liên tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ số như một động lực chiến lược cho tăng trưởng kinh tế. Nổi bật trong đó là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về tư duy phát triển, đưa kinh tế số trở thành một trụ cột mới của nền kinh tế quốc dân. Nghị quyết đặt ra mục tiêu đến năm 2030, quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP, tầm nhìn đến năm 2045 là 50% GDP, qua đó đưa Việt Nam trở thành một trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực, nằm trong nhóm 30 quốc gia dẫn đầu toàn cầu về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Quan trọng hơn, Nghị quyết 57-NQ/TW thể hiện một sự chuyển dịch có tính chiến lược trong tư duy đầu tư cho khoa học và công nghệ. Không chỉ khẳng định vai trò then chốt của khoa học - công nghệ trong chiến lược phát triển quốc gia, Nghị quyết còn tạo ra những cơ hội lớn để Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đáng chú ý, khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là khối doanh nghiệp công nghệ được xác định là động lực trung tâm, đóng vai trò chủ lực trong thực hiện các mục tiêu chuyển đổi số. Theo đó, khu vực này dự kiến đóng góp 60% tổng nguồn lực đầu tư vào khoa học và công nghệ, trở thành lực lượng xung kích, đồng hành cùng Nhà nước trong kiến tạo tương lai số.
Chủ tịch CMC Nguyễn Trung Chính báo cáo với Tổng Bí thư Tô Lâm về Hệ sinh thái mở C.OpenAI cùng 2 nhiệm vụ quốc gia CLS & CMC Cloud tại Triển lãm Kinh tế tư nhân toàn quốc.
Có thể nói, trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, việc phát huy và khơi dậy tinh thần kiến tạo của khối doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ, chính là yếu tố then chốt để Việt Nam có thể chuyển mình thành một quốc gia công nghiệp hiện đại, độc lập, tự cường và trở nên hùng cường trong tương lai không xa.
GS.TS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu gắn bó nhiều năm với việc tham gia hoạch định chính sách kinh tế, GS.TS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ với Reatimes: "Doanh nghiệp công nghệ tư nhân không chỉ cần làm tốt vai trò phát triển kinh tế mà phải đứng vào hàng ngũ những người "gánh sứ mệnh". "Gánh" theo đúng nghĩa mà một dân tộc đã từng vượt qua vô vàn khúc quanh lịch sử bằng trí tuệ, bản lĩnh và ý chí kiên cường".
GS.TS. Trần Thọ Đạt đánh giá, CMC - Tập đoàn công nghệ tư nhân với tuổi đời hơn 30 năm đang bước những bước rất dài và bản lĩnh khi nhận lãnh sứ mệnh quốc gia về phát triển sản phẩm công nghệ "Make in Việt Nam", giải pháp công nghệ lõi - những lĩnh vực đòi hỏi thời gian, chất xám và sự kiên định đến cùng. Ông cho rằng, CMC không chỉ đang tiên phong mở lối trong lĩnh vực công nghệ, mà còn đang góp phần định hình một hình mẫu doanh nghiệp Việt kiểu mới - làm kinh tế bằng trí tuệ, bằng trách nhiệm và bằng khát vọng vươn mình cùng đất nước.
- Thưa GS.TS. Trần Thọ Đạt, Nghị quyết 57-NQ/TW đã đặt khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào vị trí then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia, đồng thời gửi gắm trọng trách rất lớn cho khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp công nghệ tư nhân. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhiều lần nhấn mạnh rằng, lực lượng chủ lực cho đổi mới sáng tạo không ai khác chính là khu vực tư nhân, nhất là các doanh nghiệp công nghệ.
Theo ông, việc đặt kỳ vọng vào khối doanh nghiệp tư nhân sẽ tạo ra sức bật chiến lược ra sao cho nền kinh tế trong kỷ nguyên số?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Có thể khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW ra đời đánh dấu một bước ngoặt rất lớn trong tư duy chiến lược phát triển đất nước. Việc đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển không chỉ đúng về mặt lý luận mà còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khi Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chuyển mình thành một nền kinh tế số hiện đại, tự chủ và có năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Càng đi vào chiều sâu phát triển, chúng ta càng nhận thấy rõ rằng, một nền kinh tế tự chủ không thể thiếu khả năng làm chủ công nghệ lõi. Ở góc độ này, ngành công nghệ thông tin không chỉ là một lĩnh vực kỹ thuật hay sản xuất phần mềm, phần cứng, mà thực sự là ngành nền tảng, có tính động lực và sức lan tỏa mạnh mẽ, đóng vai trò quyết định trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cho thấy, công nghệ thông tin có khả năng dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, trở thành "xương sống" cho sự vận hành và phát triển.
Khi công nghệ trở thành "mảnh đất" để gieo trồng những hạt giống tương lai, thì doanh nghiệp công nghệ với tư cách là người làm chủ mảnh đất ấy, sẽ nắm vai trò trung tâm trong việc nâng cao năng suất và mở ra các không gian phát triển đột phá, góp phần tái định vị vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Do đó, kỳ vọng vào họ là kỳ vọng vào một khu vực kinh tế năng động, đồng thời đặt niềm tin vào một lực lượng tiên phong, có thể biến khát vọng đổi mới sáng tạo thành hiện thực tăng trưởng bền vững và đột phá.
Đó là kỳ vọng chính đáng và cũng là con đường duy nhất nếu chúng ta thực sự mong muốn đất nước bứt phá và vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên số.
- Rõ ràng, việc đặt kỳ vọng vào doanh nghiệp công nghệ tư nhân là một định hướng chiến lược tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình sang nền kinh tế số. Dẫu vậy, kỳ vọng nào cũng cần đi kèm với những điểm tựa thực tiễn. Theo Giáo sư, đâu là những nền tảng để chúng ta có thể tin tưởng rằng, lực lượng này thực sự đủ năng lực để đảm đương vai trò trung tâm trong công cuộc đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nâng tầm vị thế quốc gia?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Có nhiều cơ sở để tin tưởng vào năng lực của khu vực doanh nghiệp công nghệ tư nhân trong vai trò trung tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Về bản chất, đây là lực lượng năng động, có độ linh hoạt cao, phản ứng nhanh với thay đổi và đặc biệt nhạy bén với nhu cầu của thị trường, có khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Chính điều đó đã giúp họ liên tục đổi mới và quan trọng nhất là dám chấp nhận rủi ro để thử nghiệm các mô hình, giải pháp mới. Chúng ta đã có những điển hình như FPT, CMC, VNG, Vingroup…, những doanh nghiệp đã xây dựng được thương hiệu công nghệ trong nước, đồng thời đang từng bước mở rộng ảnh hưởng ra thị trường khu vực và toàn cầu.
Song song, chúng ta đang chứng kiến sự hình thành rõ nét của một hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ trong nước với sự xuất hiện của nhiều start-up trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud), y tế số, chính phủ số... Đây là những tín hiệu cho thấy một lớp doanh nghiệp mới đang dần đóng vai trò "hạt nhân" trong hệ sinh thái kinh tế số.
Doanh nghiệp công nghệ tư nhân là lực lượng năng động, có độ linh hoạt cao, phản ứng nhanh với thay đổi và đặc biệt nhạy bén với nhu cầu của thị trường, có khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến.
Nhìn vào thực tế, không ít thành tựu trong tiến trình chuyển đổi số của khu vực công thời gian qua cũng mang đậm dấu ấn của khu vực tư nhân, thông qua các mô hình hợp tác công tư (PPP) trong xây dựng nền tảng, hạ tầng và cung cấp dịch vụ số. Điều này cho thấy, doanh nghiệp công nghệ tư nhân không chỉ là người kiến tạo sản phẩm, mà còn là đối tác chiến lược trong hành trình chuyển đổi số quốc gia.
Trong nền kinh tế tri thức, khi mà dữ liệu trở thành "nguồn tài nguyên mới", thì việc hình thành một tầng lớp doanh nghiệp công nghệ hùng mạnh, có năng lực nội tại và khả năng cạnh tranh quốc tế là điều kiện tiên quyết. Vai trò của họ, tương tự như các "Big Tech" tại Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc… sẽ là lực kéo quan trọng, vừa dẫn dắt, vừa lan tỏa để hình thành một nền kinh tế số bền vững, tự chủ và có bản sắc Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
CMC đã nhận 2 nhiệm vụ quốc gia về chuyển đổi số.
Thứ nhất, CMC cam kết xây dựng nền tảng điện toán đám mây CMC Cloud trở thành nền tảng điện toán đám mây số 1 của người Việt, sở hữu năng lực công nghệ của người Việt như công nghệ ảo hóa máy chủ, công nghệ ảo hóa lớp mạng, ảo hóa lưu trữ. Đến năm 2028, CMC sẽ đầu tư một trung tâm điện toán đám mây hàng đầu khu vực với quy mô 80MW, hoàn toàn do Việt Nam làm chủ.
Thứ hai, CMC cam kết xây dựng nền tảng tri thức Việt AI - Hệ sinh thái mở C.OpenAI. Với C.OpenAI, hiện nay CMC đã làm chủ 25 công nghệ lõi Make in Vietnam, Made by CMC. Một trong những sản phẩm tiêu biểu là CLS, với 2 nhiệm vụ chính: Xây dựng toàn bộ trợ lý ảo cho công chức, viên chức thực hiện cho việc giải bài toán tra soát văn pháp pháp luật, tìm kiếm mâu thuẫn từ nội dung đến hình thức, thẩm quyền; Xây dựng một trợ lý ảo cung cấp dịch vụ pháp lý hỗ trợ cho người dân.
Với hai nhiệm vụ trên CMC mong muốn đóng góp vào mục tiêu đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển dựa trên công nghệ số bởi công nghệ số, dựa trên công nghệ AI, bởi công nghệ AI với sự tham gia đóng góp của CMC.
- Ngày 15/1/2025, tại Diễn đàn quốc gia Phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ VI, Tập đoàn Công nghệ CMC - Doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam tiên phong đã nhận nhiệm vụ quốc gia Chuyển đổi số, với trọng trách phát triển nền tảng điện toán đám mây CMC Cloud và xây dựng hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo Việt - C.OpenAI. Phát biểu tại sự kiện, doanh nhân Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch HĐQT, Chủ tịch điều hành Tập đoàn Công nghệ CMC khẳng định:
"Với hơn 32 năm kinh nghiệm, chúng tôi tự hào phát triển nền tảng trí tuệ nhân tạo C.OpenAI, một sản phẩm "Make in Vietnam. Không chỉ là công cụ, C.OpenAI là biểu tượng của trí tuệ Việt, được thiết kế để đưa công nghệ AI ứng dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ doanh nghiệp, y tế, giáo dục đến hành chính công. Chúng tôi đặt mục tiêu cắm cờ tri thức Việt Nam tại 30 quốc gia vào năm 2030, và xa hơn nữa, đến năm 2045, khi Việt Nam trở thành nước phát triển, chúng tôi muốn lá cờ tri thức Việt Nam hiện diện tại mọi quốc gia trên thế giới".
Là người có quá trình gắn bó, có cái nhìn tổng quan cũng như chiều sâu học thuật về kinh tế số, Giáo sư cảm nhận như thế nào về tuyên bố này của người đứng đầu CMC?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Cần ghi nhận rằng, lời khẳng định của Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC về việc phát triển nền tảng trí tuệ nhân tạo "C.OpenAI - Make in Vietnam" là một tuyên bố thể hiện khát vọng chiến lược, sự lạc quan và tầm nhìn lớn mang tính dẫn dắt tinh thần thời đại.
Đây cũng là một tuyên bố có giá trị truyền cảm hứng rất lớn đối với hệ sinh thái công nghệ trong nước. Trong bối cảnh AI đang trở thành điểm nóng toàn cầu, việc một doanh nghiệp Việt Nam dám tự tin tuyên bố phát triển nền tảng trí tuệ nhân tạo cốt lõi cho thấy khát vọng làm chủ công nghệ, điều từ trước đến nay vốn là "lãnh địa" của các tập đoàn đa quốc gia.
Tương tự như cách Hàn Quốc có Naver AI hay Trung Quốc có Baidu ERNIE, việc hướng đến "C.OpenAI" mang theo niềm tin rằng Việt Nam hoàn toàn có thể sở hữu những sản phẩm công nghệ mang bản sắc riêng, không lệ thuộc vào nền tảng nước ngoài.
Tuy nhiên, để khát vọng ấy thực sự được hiện thực hóa, cần đặt nó trong bối cảnh thực tiễn của năng lực công nghệ quốc gia, từ đó đánh giá một cách toàn diện, thấu đáo để nhìn rõ các giới hạn và thách thức cần vượt qua. Bởi con đường phía trước chắc chắn không phải là hành trình ngắn, mà là một "đường trường" đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, sự kiên định và nỗ lực bền bỉ.
- Nếu coi hành trình phát triển nền tảng điện toán đám mây CMC Cloud và hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo Việt - C.OpenAI là một "đường trường" như ông vừa ví von, vậy thì trên chặng đường dài đó, đâu là những trở ngại mà doanh nghiệp này sẽ phải vượt qua để biến khát vọng tạo ra một sản phẩm "Make in Vietnam" thành hiện thực?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Không thể phủ nhận, đây là một chặng đường đầy gian nan và khắc nghiệt, thậm chí có thể xem là một trong những thách thức công nghệ lớn nhất mà một doanh nghiệp Việt từng đối mặt. Nhưng cũng chính vì vậy, con đường ấy lại càng có ý nghĩa. Bởi nếu muốn thoát khỏi vị trí của một quốc gia tiêu dùng công nghệ, để thực sự vươn lên làm chủ và sáng tạo trong nền kinh tế số, thì đây là con đường tất yếu dù đầy chông gai, nhưng xứng đáng để theo đuổi.
Xét từ góc độ kỹ thuật và công nghệ, việc xây dựng hạ tầng điện toán đám mây CMC Cloud để đủ sức cạnh tranh với các "gã khổng lồ" như AWS (Amazon), Azure (Microsoft) hay GCP (Google) là một thách thức lớn, bởi các nền tảng này đang thống lĩnh thị phần toàn cầu với hệ sinh thái hạ tầng đồ sộ, phủ rộng khắp và năng lực vận hành đỉnh cao.
Việc phát triển các dịch vụ đám mây cấp cao đòi hỏi đội ngũ kỹ thuật mạnh, hiểu sâu về bảo mật, vận hành phân tán và tối ưu chi phí trên quy mô lớn, yêu cầu về chuẩn an toàn thông tin cấp quốc gia, khả năng dự phòng, khôi phục sau thảm họa, tương thích dữ liệu liên ngành…
Trong khuôn khổ Diễn đàn quốc gia Make in Viet Nam lần thứ 6, CMC Cloud của CMC đã được vinh danh hạng mục Sản phẩm công nghệ số tiêu biểu giai đoạn 2019 - 2024.
Song song với đó, việc phát triển nền tảng trí tuệ nhân tạo C.OpenAI với tham vọng sánh ngang OpenAI (Mỹ), Baidu (Trung Quốc), Naver (Hàn Quốc), đòi hỏi mức đầu tư khổng lồ, có thể lên tới hàng trăm triệu USD cho hạ tầng tính toán, lưu trữ, cùng hệ thống dữ liệu khổng lồ, sạch và đa dạng ở cấp độ hàng trăm tỷ tokens.
Quan trọng không kém là đội ngũ nghiên cứu chuyên sâu về học sâu (deep learning), xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP), bảo mật, đạo đức AI và khả năng triển khai mô hình trong các lĩnh vực chuyên biệt. Chưa kể, để duy trì năng lực fine-tuning, đánh giá hiệu suất và mở rộng ứng dụng, doanh nghiệp phải đầu tư liên tục và có chiều sâu trong nghiên cứu & phát triển (R&D).
Bên cạnh yếu tố kỹ thuật, một thách thức không thể không kể đến chính là hệ sinh thái và thị trường. Hiện nay, thị trường AI tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, còn khá non trẻ, phần lớn doanh nghiệp mới dừng lại ở việc ứng dụng các giải pháp đơn giản như chatbot, nhận diện ký tự quang học (OCR), phân loại hình ảnh…, chứ chưa thực sự hình thành nhu cầu rộng rãi đối với các mô hình AI nền tảng có tính tổng quát cao.
Thêm vào đó, tâm lý thận trọng cùng sự phụ thuộc lâu năm vào các nền tảng công nghệ nước ngoài khiến nhiều khách hàng trong nước chưa sẵn sàng chuyển sang sử dụng sản phẩm AI nội địa, nhất là những sản phẩm còn đang trong quá trình hoàn thiện và chưa có độ phổ cập rộng.
Chưa kể, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực AI hiện đang khan hiếm. Phần đông nhân sự trong lĩnh vực này hiện vẫn tập trung ở các khối nghiên cứu hoặc đang làm việc tại nước ngoài, chưa tham gia sâu vào khối doanh nghiệp tư nhân trong nước.
- Quả thực, hành trình chinh phục công nghệ chưa bao giờ là con đường dễ đi, nhất là với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Nhưng cũng chính vì thế mà việc từng bước làm chủ công nghệ và phát triển những sản phẩm "Make in Vietnam" - như cách CMC đang theo đuổi lại càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt…
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Có thể nói, việc Việt Nam có thể làm chủ công nghệ và phát triển các sản phẩm "Make in Vietnam" mang ý nghĩa chiến lược đặc biệt sâu sắc. Những nỗ lực như của CMC với định hướng đầu tư vào điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo cho thấy đây không chỉ là đích đến của ngành công nghiệp công nghệ số, mà còn là thước đo năng lực cạnh tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Những sản phẩm "Make in Vietnam" sẽ phản ánh mức độ làm chủ công nghệ lõi và khả năng sáng tạo độc lập, đây là chỉ dấu quan trọng của năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời đại số.
Thay vì chỉ "lắp ráp" hoặc "nhập khẩu công nghệ", làm chủ sản phẩm công nghệ giúp Việt Nam vượt lên chuỗi giá trị, chiếm lĩnh khâu thiết kế - sáng tạo - nền tảng, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, ít bị thay thế hơn trong thương mại toàn cầu, xây dựng hệ sinh thái công nghệ bản địa, có khả năng lan tỏa sang các ngành khác như nông nghiệp, logistics, tài chính…
Bên cạnh đó, việc làm chủ công nghệ cũng cho phép chúng ta phát triển những giải pháp có thể linh hoạt tùy biến cho từng địa phương, ngành nghề, tạo vòng đời dài hơn và chi phí tối ưu hơn cho người sử dụng, đặc biệt trong khối công và doanh nghiệp vừa và nhỏ, sản phẩm nội địa hóa tạo cơ hội đào tạo nguồn nhân lực số ngay trong nước, giúp xã hội chuyển đổi số đồng đều hơn, giảm thiểu "chia rẽ số" (Digital Divide).
CMC Data Center Tân Thuận là trung tâm dữ liệu đầu tiên của Việt Nam đạt tiêu chuẩn An toàn Hệ thống Thông tin Cấp độ 4, được chứng thực đảm bảo phục vụ người dùng có quy mô đặc biệt lớn và có nhu cầu đặc thù, đặc biệt như các tổ chức tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử…
Ở tầng sâu hơn, sự hiện diện của một nền tảng công nghệ do chính doanh nghiệp Việt phát triển còn là biểu tượng của "chủ quyền công nghệ" - yếu tố sống còn trong kỷ nguyên số.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà công nghệ trở thành hạ tầng cốt lõi cho mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo dục, y tế cho đến quốc phòng an ninh. Do vậy, nếu không làm chủ được công nghệ mà chỉ phụ thuộc vào giải pháp ngoại nhập vốn tiềm ẩn rủi ro lớn về an ninh, chủ quyền và khả năng kiểm soát dữ liệu, thì không khác gì xây nhà trên nền móng của người khác, rất dễ sụp đổ và khó bền vững.
Việc làm chủ công nghệ và có sản phẩm "Make in Vietnam" giúp Việt Nam tự lực trong xây dựng nền tảng số quốc gia (như Cloud, AI, IoT…), bảo vệ dữ liệu người dùng, dữ liệu chiến lược, giảm rủi ro từ các cuộc chiến công nghệ - thương mại mà các nước lớn có thể sử dụng như công cụ gây sức ép.
Ngoài ra, điều này cũng sẽ thúc đẩy lòng tự tôn, khát vọng phát triển và tinh thần sáng tạo dân tộc. Thành công của các sản phẩm "Make in Vietnam" như Zalo, akaBot, Base.vn, C.OpenAI… mang lại niềm tin rằng, người Việt có thể làm được những điều lớn trong công nghệ, thúc đẩy khát vọng quốc gia vươn lên làm chủ tương lai, góp phần xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo, yếu tố nền tảng cho mọi cuộc cách mạng công nghiệp.
Nói cách khác, những sản phẩm "Make in Vietnam" không đơn thuần là hàng hóa công nghệ, mà còn là biểu tượng của chủ quyền công nghệ, của sức cạnh tranh quốc gia và của niềm tin vào năng lực nội tại. Trong hành trình chuyển đổi số, chỉ khi nào chúng ta làm chủ công nghệ, làm chủ hạ tầng, và làm chủ tư duy đổi mới sáng tạo, thì quá trình đó mới bền vững, độc lập và có khả năng lan tỏa toàn diện.
- Rõ ràng, trong bối cảnh hiện nay, tự chủ công nghệ đang được xác lập như một đột phá chiến lược. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: "Phải coi phát triển khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho phát triển. Phải chuyển mạnh từ áp dụng "bắt chước" công nghệ sẵn có sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, coi đây là một đột phá chiến lược. Phải có công nghệ Việt Nam (Made by Vietnam) để tạo ra hàng hóa Việt Nam (Made in Vietnam), làm cho Việt Nam phát triển hùng cường".
Đặt trong tinh thần đó, việc một doanh nghiệp tư nhân như CMC được "chọn mặt gửi vàng" để phát triển những lĩnh vực cốt lõi như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo rõ ràng không phải là sự tình cờ. Dường như điều này còn cho thấy một niềm tin có cơ sở, một sứ mệnh lớn lao đang được trao cho doanh nghiệp tư nhân, giữa muôn vàn thách thức của hành trình làm chủ công nghệ?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành trục xoay chiến lược cho sự phát triển quốc gia, có thể thấy, chưa bao giờ niềm tin dành cho khối doanh nghiệp tư nhân lại được trao gửi một cách mạnh mẽ đến vậy.
Thế nhưng, tôi cho rằng, trong những sứ mệnh mang tầm quốc gia, niềm tin, dù cần thiết nhưng vẫn chưa đủ. Quan trọng hơn cả là đặt niềm tin đúng chỗ. Bởi chỉ khi được trao gửi cho đúng chủ thể, những đơn vị đủ tầm vóc, đủ năng lực và đủ khát vọng thì niềm tin ấy mới có cơ hội đơm hoa kết trái.
Việc tập đoàn Công nghệ CMC được "chọn mặt gửi vàng" là một sự lựa chọn có cơ sở đến từ năng lực công nghệ đã được chứng minh, từ nền tảng nội lực đã tích lũy suốt nhiều năm.
Ba thập kỷ phát triển bền bỉ không chỉ giúp CMC khẳng định vị thế của một trong những tập đoàn công nghệ tư nhân hàng đầu Việt Nam, mà còn chứng minh khả năng phát triển bền vững qua từng giai đoạn công nghệ.
Đây cũng là một trong số ít doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam đầu tư dài hạn vào các công nghệ nền tảng như hạ tầng CMC Cloud, trung tâm dữ liệu (Data Center) và năng lực xử lý tính toán phục vụ AI, điều không nhiều doanh nghiệp tư nhân đủ sức thực hiện.
Đến nay, hơn 2.000 dự án công nghệ thông tin đã được đội ngũ chuyên gia CMC triển khai thành công, với hơn 90% số dự án hoàn thành đúng tiến độ, trải dài trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây là minh chứng rõ nét cho năng lực thực thi, khả năng quản trị dự án và độ tin cậy cao mà CMC mang lại.
Ngoài ra, CMC còn sở hữu hệ sinh thái hoàn chỉnh từ viễn thông, điện toán đám mây, bảo mật, giải pháp hạ tầng số cho doanh nghiệp, chính phủ đến phát triển AI. Tập đoàn hiện đã hình thành được một hệ sinh thái hơn 20 công nghệ lõi giúp hỗ trợ hiệu quả cho quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp trên toàn cầu.
Những sản phẩm tiêu biểu như CIVAMS (Giải pháp Phân tích và quản lý hình ảnh thông minh), C-VOICE (Giải pháp nhận dạng và chuyển đổi qua lại giữa văn bản là giọng nói), C-OCR (Giải pháp chuyển đổi nhận dạng chữ từ giấy tờ dạng ảnh), C-Meet (Họp không giấy và tổ chưc sự kiện), C-CHATBOT (Giải pháp cung cấp trợ lý ảo đa ngôn ngữ)… đều là kết quả của quá trình đầu tư bài bản vào công nghệ lõi và nghiên cứu phát triển (R&D), với nhiều thành tựu được quốc tế công nhận. Đơn cử, giải pháp nhận diện khuôn mặt CIVAMS của CMC ATI đã lọt top 12 thế giới và đứng đầu Việt Nam trong đánh giá của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ (NIST).



CMC sở hữu hệ sinh thái hoàn chỉnh từ viễn thông, điện toán đám mây, bảo mật, giải pháp hạ tầng số cho doanh nghiệp, chính phủ đến phát triển AI.
Về hạ tầng số, CMC hiện sở hữu mạng đường trục CVCS, tuyến cáp xuyên Việt đầu tiên do một doanh nghiệp trong nước làm chủ, kết nối trực tiếp với các tuyến cáp biển quốc tế như AAE1, APG, Unity, Faster…. CMC cũng là đơn vị tiên phong xây dựng C.OPE2N - một hệ sinh thái mở, tích hợp đa nền tảng từ Cloud, AI đến dữ liệu lớn, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số một cách toàn diện, linh hoạt và hiệu quả.
Song song đó, việc phát triển Không gian sáng tạo - CMC Creative Space tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM cho thấy tầm nhìn dài hạn, hướng tới môi trường sáng tạo và bứt phá cho thế hệ nhân sự công nghệ tương lai.
Trong khi nhiều doanh nghiệp còn đang ở giai đoạn chuyển đổi số nội bộ, CMC đã có hạ tầng sẵn sàng, có đội ngũ R&D công nghệ lõi, hệ sinh thái sản phẩm, đối tác và khách hàng, có năng lực triển khai trên quy mô quốc gia. Việc Chính phủ giao sứ mệnh chuyển đổi số tầm quốc gia cho CMC là một quyết định đặt niềm tin có cơ sở. Đó là sự kết tinh giữa thành tựu thực tế, định hướng công nghệ đúng đắn và năng lực quản trị bài bản.
Tiếp nối thành công của CCS Tân Thuận (TP.HCM), đầu tháng 6/2025, CMC đã khởi công Tổ hợp không gian sáng tạo CMC (CMC Creative Space – CCS Hà Nội).
Trong khi CCS Tân Thuận đóng vai trò là trung tâm hạ tầng dữ liệu, CCS Hà Nội được định hướng trở thành trung tâm trí tuệ nhân tạo mở (C.OpenAI).
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thực hiện nghi thức khởi công Tổ hợp không gian sáng tạo CMC - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Với tổng mức đầu tư 300 triệu USD (khoảng 7.800 tỷ đồng), tổ hợp được xây dựng trên khu đất rộng hơn 11.000m2, gồm 23 tầng nổi và 3 tầng hầm, với tổng diện tích sàn trên 90.000m2. CCS Hà Nội không chỉ là tổ hợp văn phòng công nghệ mà là một hệ sinh thái tích hợp toàn diện, bao gồm: Trung tâm dữ liệu, không gian nghiên cứu và phát triển (R&D), khu đào tạo nhân lực và khu vực hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo - nơi hơn 5.000 kỹ sư công nghệ sẽ cùng làm việc, nghiên cứu và kết nối.
Trong đó, "trái tim" của toàn bộ tổ hợp là Trung tâm Dữ liệu CMC - nơi CMC sẽ ứng dụng thế hệ công nghệ mới nhất với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI), cung cấp hệ sinh thái công nghệ AI, điện toán đám mây (Cloud), an ninh an toàn thông tin (Security), dữ liệu lớn (Big Data), mạng thế hệ sau. Hệ sinh thái mở C.OpenAI gồm 25 công nghệ lõi do CMC phát triển sẽ được vận hành tại đây.
Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Tập đoàn CMC cho biết, Tập đoàn đặt mục tiêu đến năm 2028 đạt doanh thu 1 tỷ USD, có 10.000 nhân sự, hiện diện tại 30 quốc gia, tốc độ tăng trưởng trung bình 20%/năm. Trong đó, CCS Hà Nội là một phần cốt lõi của hạ tầng phục vụ chiến lược tiến ra toàn cầu, cũng như là không gian triển khai các hợp tác chiến lược với NVIDIA, Microsoft, Samsung, Google, AWS…
Điểm khác biệt lớn nhất của CCS Hà Nội không nằm ở thiết kế hay độ cao tòa nhà mà ở mục tiêu mà nó phục vụ: Tạo ra không gian sáng tạo mở, đa lớp – nơi các nhóm R&D, start-up, trường đại học và doanh nghiệp công nghệ có thể cùng tương tác, chia sẻ dữ liệu, phát triển ý tưởng và thương mại hóa sản phẩm công nghệ.
- Phải chăng, điều khiến CMC được đặt vào vị trí trung tâm của những sứ mệnh công nghệ quốc gia không chỉ nằm ở năng lực đã được minh chứng hay bề dày kinh nghiệm triển khai hàng trăm dự án, mà còn đến từ một "chất" rất riêng biệt. Giáo sư có nghĩ như vậy không?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Tôi tin rằng điều đó bắt nguồn từ hai chữ rất căn cốt, đó là "khát vọng". Cần nhìn nhận rằng, nếu không có khát vọng vươn lên, không có niềm tin mãnh liệt vào con đường chinh phục công nghệ của người Việt, thì có lẽ hôm nay chúng ta đã không có một CMC như đang thấy - một tập đoàn tư nhân mang trong mình tinh thần đổi mới, tầm nhìn dài hạn và bản lĩnh tiên phong đáng khâm phục.
- Đúng vậy, thưa Giáo sư. Doanh nhân Nguyễn Trung Chính từng chia sẻ rằng: "CMC không chỉ xây dựng một doanh nghiệp, mà chúng tôi đang cùng cộng đồng công nghệ kiến tạo tương lai. Đó là hành trình thể hiện khát vọng Việt: Make in Vietnam - Go Global bằng tri thức và bản lĩnh người Việt". Giáo sư cảm nhận thế nào về hai chữ "khát vọng" mà doanh nghiệp này đề cập đến?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Chúng ta đã có nhiều luận bàn về hai chữ "khát vọng" với nhiều góc cạnh. Trước hết, khát vọng không chỉ là mong muốn. Đó là một năng lượng tinh thần mãnh liệt, thôi thúc hành động không ngừng nghỉ để vượt qua giới hạn, vượt qua mặc cảm, vượt qua sự phụ thuộc, điều mà các doanh nghiệp công nghệ Việt từng đối mặt rất lâu trong quá khứ.
Hai chữ "khát vọng" với CMC là hành trình rất thật, đã được hun đúc bền bỉ suốt hơn 3 thập kỷ bền gan vươn lên từ những ngày đầu vô cùng gian khó. Năm 1993, khi hạ tầng công nghệ thông tin tại Việt Nam vẫn còn vô cùng sơ khai, CMC chỉ là một tập thể nhỏ với vỏn vẹn 20 cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật viên, nhưng mang trong mình một khát vọng lớn là làm chủ công nghệ để góp phần nâng cao nội lực số cho đất nước. Không có hậu thuẫn lớn, không có thị trường sẵn sàng chờ đón, nhưng CMC đã từng bước tạo dựng vị thế bằng chính tinh thần tiên phong, sáng tạo và kiên định với tầm nhìn dài hạn.
Từ những bước đi đầu tiên đầy thách thức ấy, CMC ngày nay đã trở thành một trong những tập đoàn công nghệ tư nhân hàng đầu Việt Nam về cả quy mô, chiều sâu chiến lược và sự toàn diện trong hệ sinh thái. Tập đoàn hiện có khoảng 10 đơn vị thành viên, vận hành trên 4 trụ cột chiến lược: Công nghệ & Giải pháp (Technology & Solution), Dịch vụ Viễn thông (Telecommunications), Kinh doanh Quốc tế (Global Business) và Nghiên cứu & Giáo dục (Research & Education), đồng thời là đối tác tin cậy trong nhiều dự án ICT cấp quốc gia thuộc các lĩnh vực then chốt như chính phủ điện tử, giáo dục, tài chính, ngân hàng, năng lượng… Tập đoàn cũng đã có mặt và hợp tác với trên 30 quốc gia trên thế giới, trải khắp các châu lục từ châu Á - Thái Bình Dương đến châu Âu và Mỹ, trong đó có những thị trường lâu năm như Nhật Bản hay Hàn Quốc.
CMC hiện có khoảng hơn 5.000 nhân viên, hoạt động ở quy mô khu vực và doanh thu ước tính khoảng 400 triệu USD/năm. Tập đoàn đã được vinh danh trong Top 20 thương hiệu nổi tiếng ASEAN... và mới đây nhất, CMC đã trở thành đại diện duy nhất của Việt Nam được nhận giải thưởng Cybersecurity Initiative of the Year (Sáng kiến An ninh mạng của năm) trong khuôn khổ Asian Telecom Awards 2025, một cột mốc khẳng định vai trò tiên phong của Tập đoàn trong việc xây dựng hệ sinh thái số an toàn, hiện đại và bền vững cho doanh nghiệp.
Hành trình phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam đối diện với rất nhiều thách thức, khó khăn, sau hàng chục năm, những cái tên thực sự nổi bật, khẳng định được vị thế của mình trong lĩnh vực công nghệ đến giờ quả là không nhiều. Với CMC, xuất thân từ một doanh nghiệp tư nhân để vươn lên như ngày hôm nay, phải nói rằng, đó là một hành trình khát vọng không nghỉ ngơi mà nhiều doanh nghiệp không dám làm.
Bên cạnh đó, "khát vọng" của CMC gắn liền với trách nhiệm góp phần kiến tạo tương lai quốc gia. Điều đó không đặt CMC như một chủ thể kinh doanh thuần túy, mà là một mắt xích trong cộng đồng công nghệ Việt, trong một hành trình lớn hơn, đó là kiến tạo tương lai đất nước trong kỷ nguyên số. Khát vọng ở đây mang hàm nghĩa trách nhiệm dân tộc, không để Việt Nam mãi là quốc gia gia công, không để công nghệ Việt tụt hậu trong thế giới AI, Cloud, Big Data, Cybersecurity…, không để thế hệ sau phụ thuộc vào hạ tầng số của nước ngoài.
Khát vọng này dựa trên tri thức và bản lĩnh, là khát vọng không đứng một mình mà được gắn với tri thức, nghiên cứu, công nghệ lõi. Cùng với đó là bản lĩnh và ý chí kiên cường, dám nghĩ lớn, dám đương đầu thử thách. "Make in Vietnam - Go Global" không còn là khẩu hiệu, mà là chiến lược có chiều sâu khi nó được thực hiện trên nền tảng nghiên cứu và phát triển bài bản (R&D), đầu tư dài hạn vào hạ tầng số, thực hiện sứ mệnh quốc gia về chuyển đổi số và AI.
Khát vọng này còn là điểm hội tụ giữa giấc mơ doanh nghiệp và giấc mơ dân tộc. Khi một doanh nghiệp nói đến "khát vọng Việt", đó không chỉ là khát vọng riêng họ, mà là sự cộng hưởng với giấc mơ Việt Nam hùng cường, số hóa, xanh hóa và hội nhập toàn cầu. Và khi doanh nghiệp gắn điều đó với "cộng đồng công nghệ", tức là họ không đi một mình mà muốn truyền cảm hứng, lan tỏa năng lượng khát vọng ấy đến toàn ngành, toàn dân tộc, và nếu được nuôi dưỡng đúng cách, nó có thể trở thành động lực chiến lược cho tương lai kinh tế số Việt Nam.
Doanh nghiệp công nghệ là những người kiến tạo hệ sinh thái, dẫn dắt cách sống, cách nghĩ, phương thức phát triển của cả xã hội.
- Cùng khởi nguồn trong một bối cảnh chuyển mình đầy thử thách của nền kinh tế, nhưng chỉ số ít doanh nghiệp công nghệ như CMC có thể vươn lên bứt phá và khẳng định vị thế như hôm nay. Theo Giáo sư, điều gì đã làm nên khác biệt này?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Tôi cho rằng, thành công của CMC là kết quả của một tầm nhìn chiến lược rõ ràng, một quá trình đi đường dài với những lựa chọn rất khác biệt và táo bạo.
Ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, trong bối cảnh Mỹ vừa dỡ bỏ cấm vận, Việt Nam bắt đầu hội nhập với thế giới, ngành công nghệ thông tin trong nước còn rất sơ khai, phần lớn doanh nghiệp trong nước thường chọn cách tiếp cận an toàn khi gia công phần mềm, phân phối thiết bị hay cung cấp dịch vụ công nghệ phổ thông. Những lựa chọn này ít rủi ro, dễ sinh lời, phù hợp với điều kiện tài chính, nhân lực và thị trường còn non trẻ. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc khó tạo ra năng lực cạnh tranh cốt lõi, khó nâng tầm giá trị Việt trong chuỗi công nghệ toàn cầu.
CMC thì ngược lại. Ngay từ khi thành lập, CMC âm thầm nuôi dưỡng giấc mơ sản xuất máy tính "Make in Vietnam", đồng thời xác định rõ công nghệ thông tin không chỉ là ngành nghề kinh doanh, mà là năng lực cốt lõi cần được đầu tư nghiêm túc và bài bản.
Trong khi thị trường còn nhiều dè dặt, thể chế cho kinh tế tư nhân chưa rõ ràng, các ưu đãi cho nghiên cứu - phát triển trong lĩnh vực này còn hạn chế, thì CMC lại quyết định "đi vào lõi" khi đầu tư mạnh mẽ vào những lĩnh vực mang tính nền tảng như điện toán đám mây (Cloud), trí tuệ nhân tạo (AI), an ninh mạng (Cybersecurity).
Đây đều là những lĩnh vực không dễ tiếp cận, đòi hỏi nguồn lực lớn, tri thức sâu và đặc biệt là khả năng chịu rủi ro rất cao. Chưa kể vào thời điểm ấy, Việt Nam cũng không có nhiều mô hình đi trước để học hỏi.
Nói một cách hình ảnh, họ đã từng gần như đi một mình giữa sa mạc, không có bản đồ, chỉ có niềm tin vào con đường mình chọn. Nhưng cũng chính sự lựa chọn đầy bản lĩnh đó đã giúp CMC tạo ra lợi thế nền tảng, bởi khi làm chủ được "phần lõi" của công nghệ, doanh nghiệp không chỉ thoát khỏi vòng lặp gia công, mà còn có thể định hình sân chơi, dẫn dắt thị trường, và quan trọng hơn, góp phần kiến tạo tương lai số cho cả quốc gia.
Vì thế, tôi cho rằng, sự khác biệt của CMC nằm ở tư duy đi trước thời đại, ở năng lực dám chọn đường khó và ở chiến lược phát triển mang tính kiến tạo thay vì chỉ ứng phó. Và thành công ấy cũng là minh chứng sống động rằng doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể vươn lên mạnh mẽ, nếu có bản lĩnh đi đường dài, chọn đúng điểm rơi của tương lai và không ngừng đầu tư cho trí tuệ Việt.
- Nhưng xét cho cùng, để theo đuổi một con đường đầy rủi ro như vậy, không chỉ là câu chuyện riêng về chiến lược, mà dường như còn phản ánh nhiều chiều cạnh lớn hơn. Liệu còn có hàm ý sâu sắc hơn đằng sau sự vươn lên này không, thưa Giáo sư?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Chắc chắn là như vậy. Nếu chỉ nhìn sự bứt phá của CMC như một kết quả chiến lược kinh doanh đơn thuần thì sẽ là chưa đủ.
Đằng sau hành trình "đi vào lõi" ấy là một tầng sâu hơn, là biểu hiện điển hình của tư duy phát triển kiến tạo, là mô hình doanh nghiệp tiên phong dám nhận phần việc khó nhất để mở đường cho cả hệ sinh thái công nghệ Việt Nam. Và điều quan trọng nhất, điểm tạo nên khác biệt sâu sắc nhất, chính là yếu tố con người, cụ thể là người lãnh đạo doanh nghiệp.
Không nhiều người có thể "nhìn ra được" và giữ vững tầm nhìn công nghệ trong hơn 30 năm, từ những ngày Việt Nam thiếu máy tính, thiếu kết nối internet, cho đến thời kỳ AI, Cloud, Blockchain như ngày nay.
Lãnh đạo CMC là một trong số ít doanh nhân Việt Nam đi trọn vẹn từ các chu kỳ công nghệ sơ khởi đến kỷ nguyên số toàn diện, mà không đánh mất định hướng chiến lược, dám chọn con đường khó, dấn thân vào công nghệ lõi, chấp nhận đi chậm để chắc, chấp nhận đầu tư lớn, lợi nhuận nhỏ, miễn là con đường đó tạo ra giá trị nền tảng cho đất nước.
Câu nói "kiến tạo tương lai bằng bản lĩnh người Việt" phản ánh một tư duy sâu sắc rằng, kinh tế tư nhân không chỉ làm kinh tế, mà còn mang sứ mệnh lịch sử trong hành trình xây dựng quốc gia số.
Điều đáng chú ý là lãnh đạo tập đoàn không dừng lại ở mục tiêu "CMC trở thành tập đoàn công nghệ số hàng đầu Việt Nam", mà còn định vị rõ tầm nhìn "Go Global", với niềm tin xuyên suốt rằng tri thức người Việt hoàn toàn có thể làm ra sản phẩm mang giá trị toàn cầu, nếu dám đi đường dài, đầu tư bài bản và kiên trì đến cùng.
Ở lãnh đạo CMC, ta không chỉ thấy một doanh nhân giỏi quản trị hay dày dặn kinh nghiệm về tài chính, mà còn thấy hình bóng của một "doanh nhân kiến tạo", người luôn nói đến "khát vọng Việt" như một tinh thần sống, và coi trọng vai trò của doanh nghiệp tư nhân như một lực lượng tiên phong trong kiến thiết tương lai đất nước. Đó là doanh nhân hội tụ đủ tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh kiên định nhưng vẫn linh hoạt, thực tế mà không thiếu cảm hứng.
- Như Giáo sư vừa đề cập, thành công của CMC không chỉ đến từ tầm nhìn chiến lược hay lựa chọn đi vào "lõi công nghệ", mà còn đến từ bản lĩnh của người lãnh đạo dám dám đi đường khó, đi đường dài. Trong suốt hành trình đó, thay vì chọn con đường liên doanh hay bán cổ phần để mở rộng quy mô nhanh chóng như nhiều doanh nghiệp khác, CMC dưới sự dẫn dắt của ông Nguyễn Trung Chính khởi đầu là một doanh nghiệp Việt, và sau bao sóng gió, vẫn giữ nguyên bản sắc ấy, vẫn là một doanh nghiệp Việt Nam độc lập, làm chủ công nghệ và tầm nhìn. Lựa chọn ấy nói lên điều gì? Đó chỉ là sự khác biệt chiến lược, hay là tuyên ngôn sâu xa về niềm tin vào nội lực dân tộc trong thời đại hội nhập, thưa Giáo sư?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Trong thời đại toàn cầu hóa, doanh nghiệp Việt Nam thường đứng trước ngã rẽ, đó là giữa lựa chọn "lớn nhanh nhờ hợp tác ngoại" hay "từng bước vững chắc nhờ nội lực". Từ góc nhìn kinh tế học, kết hợp với góc nhìn văn hóa và niềm tin vào bản sắc dân tộc, tôi cho rằng, lựa chọn của CMC là một minh chứng sinh động và đáng suy ngẫm.
Với góc nhìn lý thuyết doanh nghiệp tri thức, bản sắc doanh nghiệp "identity capital", một "vốn tài sản vô hình" được xem là một dạng tài sản cạnh tranh bền vững, một lựa chọn mang tính chiến lược dài hạn. Việc CMC giữ vững vai trò là doanh nghiệp Việt độc lập, có tầm nhìn riêng, làm chủ sản phẩm, chủ quyền dữ liệu, đồng nghĩa với việc họ giữ được quyền tự quyết chiến lược, không bị lệ thuộc vào dòng vốn hay công nghệ ngoại.
Không ít doanh nghiệp Việt từng kỳ vọng liên doanh sẽ là cú hích chiến lược, nhưng thực tế đã trở thành bên phụ thuộc về công nghệ, thương hiệu và quyết sách như một số ví dụ trong lĩnh vực viễn thông, bán lẻ, thậm chí công nghệ cao. Khi quyền kiểm soát rơi dần vào tay đối tác ngoại, doanh nghiệp Việt bị bào mòn lợi thế dài hạn, mất cả đội ngũ sáng tạo, mất định hướng độc lập và cuối cùng nhạt nhòa rút khỏi sân chơi. Đây là bài học lớn từ những "liên doanh hụt hơi".
CMC đã chọn con đường khó nhưng bền vững, không đi ngược toàn cầu hóa, vẫn hợp tác quốc tế (như với Samsung SDS, SAP, Microsoft), nhưng luôn giữ vai trò làm chủ nền tảng: Tự xây dựng CMC Cloud, phát triển C.OpenAI, làm chủ các chuẩn dữ liệu và bảo mật. Tư duy này thể hiện một điều cốt lõi trong kinh tế học phát triển: Nếu muốn đi xa, ở cả tầm quốc gia và doanh nghiệp, cần năng lực nội sinh chứ không thể sống nhờ "cái bóng" của người khác.
Dưới góc nhìn toàn cầu hóa và niềm tin vào nội lực dân tộc, có thể khẳng định, toàn cầu hóa không đồng nghĩa với đánh mất mình. Trong kỷ nguyên hội nhập, thật dễ để doanh nghiệp Việt trở thành "vệ tinh" cho những tập đoàn ngoại, làm gia công, phân phối, tiếp thị sản phẩm của người khác. Nhưng bước đi của CMC cho thấy toàn cầu hóa có thể là nền tảng để tỏa sáng bản sắc Việt nếu chúng ta đủ nội lực.
CMC đã giữ được điều quan trọng nhất là quyền kiểm soát từ công nghệ đến tầm nhìn, và đó cũng là giữ được niềm tin rằng người Việt có thể làm chủ những lĩnh vực đòi hỏi tri thức và công nghệ đỉnh cao nhất như AI, Cloud, Big Data. Chính điều đó khơi dậy niềm tin rộng hơn vào tương lai nền kinh tế tri thức Việt Nam rằng ta có thể đi con đường riêng, không phải "mua bản quyền, mua công nghệ, mua mô hình" mãi.
Những nền kinh tế công nghệ hàng đầu như Hàn Quốc, Israel hay Phần Lan đều trải qua quá trình giữ vững doanh nghiệp công nghệ chiến lược, không để rơi vào tay nước ngoài, nhất là trong những ngành then chốt như AI, viễn thông, an ninh mạng. CMC. Theo nghĩa đó, CMC đang đi con đường rất gần với triết lý "phát triển có chủ quyền", vừa hội nhập, vừa tự chủ.
Việc giữ vững bản sắc là doanh nghiệp Việt độc lập, tự chủ và làm chủ công nghệ đã khẳng định niềm tin vào trí tuệ Việt trong thời đại số. Trong làn sóng toàn cầu hóa mà ranh giới giữa "hội nhập" và "hòa tan" rất mong manh, CMC đang góp phần chứng minh rằng, chúng ta không cần đánh mất mình để trở thành một phần của thế giới. Chúng ta có thể là chính mình và vẫn chinh phục thế giới.
- Phải chăng, trong lựa chọn giữ gìn bản sắc Việt và kiên quyết không đánh đổi quyền tự chủ chiến lược, chúng ta đang chứng kiến sự định hình của một lớp doanh nghiệp tư nhân kiểu mới. Họ không đơn thuần theo đuổi giá trị kinh tế, mà còn đặt sứ mệnh xã hội và sự phát triển bền vững làm trọng tâm hành động?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Đây thực sự là một chuyển động đang diễn ra. Những doanh nghiệp như CMC chính là hình mẫu doanh nghiệp tư nhân kiểu mới, ở đó ranh giới giữa "kinh doanh" và "kiến quốc" dần được xóa nhòa. Việc CMC lựa chọn giữ vững bản sắc Việt và không đánh đổi quyền tự chủ chiến lược là một cam kết sâu sắc với đất nước.
Không khó để nhận ra, bên cạnh việc đầu tư vào các công nghệ lõi như điện toán đám mây, AI, bảo mật và dữ liệu lớn, thì CMC cũng đang dành một phần không nhỏ nguồn lực để hiện thực hóa trách nhiệm xã hội, tất cả đều cho thấy chân dung một CMC không chỉ làm công nghệ cho mình, mà đang làm công nghệ cho cộng đồng, với tinh thần kiến tạo một Việt Nam số độc lập, tự chủ, xanh và bền vững.
Tư duy đó không chỉ thể hiện trong chiến lược kinh doanh, mà còn thấm nhuần vào từng hành động cụ thể. Nhìn từ góc độ chuyên môn, CMC sớm xác định rằng phát triển hạ tầng số không thể tách rời yếu tố "xanh", tức phát triển bền vững, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Ngay từ những ngày đầu, tập đoàn đã xác lập nguyên tắc công nghệ phải đi cùng trách nhiệm môi trường, và hạ tầng số chỉ thực sự hiện đại khi được xây dựng trên nền tảng quản lý năng lượng hiệu quả.
Minh chứng rõ nét cho tầm nhìn này là việc CMC Telecom, đơn vị thành viên của Tập đoàn đã triển khai Hệ thống Quản lý Năng lượng theo tiêu chuẩn ISO/IEC 50001:2018, giúp CMC Telecom thiết lập các quy trình và công cụ giám sát, tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng tại các trung tâm dữ liệu, hệ thống mạng và dịch vụ số. Nhờ đó giúp giảm lượng điện năng tiêu thụ không cần thiết, đồng thời hạn chế phát thải CO2, vốn là nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu.
Không dừng lại đó, CMC Telecom còn chủ động áp dụng đồng bộ, toàn diện các chính sách và quy trình quản lý năng lượng cho toàn bộ hệ sinh thái dịch vụ của mình từ Cloud, Connectivity, Security đến Data Center. Mỗi thành phần trong chuỗi dịch vụ đều được tối ưu vận hành nhằm giảm thiểu tiêu hao năng lượng, giảm phát thải và hướng đến hiệu quả môi trường bền vững.
Đặc biệt, tại các trung tâm dữ liệu "trái tim" của hạ tầng số, CMC Telecom đã mạnh dạn đầu tư vào loạt giải pháp công nghệ tiên tiến như hệ thống cô lập hành lang lạnh và hệ thống làm mát Chiller hiện đại, giúp giảm đáng kể lượng điện tiêu thụ. Những giải pháp này không chỉ nâng cao hiệu suất vận hành mà còn góp phần giảm phát thải CO2, đồng hành cùng Chính phủ trong việc hiện thực hóa cam kết trung hòa carbon vào năm 2050 theo tinh thần của COP26. Ở CMC, phát triển công nghệ không tách rời phát triển bền vững. Đó là lựa chọn chiến lược, đồng thời là cam kết lâu dài với môi trường, cộng đồng và tương lai xanh của quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam đang cần những lực đẩy nội sinh cho một nền kinh tế tri thức và số hóa, những doanh nghiệp như CMC đang chứng minh một điều rằng, doanh nghiệp tư nhân kiểu mới không chỉ là những người làm ăn giỏi, mà còn là những người làm việc nghĩa, kiến tạo sự phát triển cho cả cộng đồng. Sự trưởng thành ấy không chỉ thể hiện qua chỉ số tăng trưởng, mà qua từng hành động cụ thể, với từng khoản đầu tư mang tính khai mở, và ở từng cam kết vì người yếu thế. Chính những điều ấy mới làm nên một thương hiệu Việt phát triển bền vững.
Trong suốt hơn 30 năm hoạt động, CMC đã tổ chức nhiều chương trình trao tặng máy tính ý nghĩa hướng tới vùng biên giới và hải đảo, là những vùng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các thiết bị công nghệ thông tin. Hưởng ứng chương trình "Sóng và máy tính cho em" do Thủ tướng Chính phủ phát động, CMC đã trao tặng 3.600 máy tính bảng cho học sinh, sinh viên khó khăn giúp các em có điều kiện học trực tuyến, cùng nhiều thiết bị giảng dạy hỗ trợ tăng khả năng tiếp cận giáo dục số.

Bên cạnh đó, CMC cũng triển khai các chương trình tài trợ bản quyền phần mềm bảo mật CMDD miễn phí cho doanh nghiệp trẻ khởi nghiệp, hay tài trợ giúp 500 doanh nghiệp tại Bà Rịa - Vũng Tàu chuyển đổi số.
Điều đó cho thấy họ không đi một mình, mà muốn kéo cả hệ sinh thái doanh nghiệp Việt cùng chuyển mình mạnh mẽ. Ngay cả trong thời kỳ dịch bệnh, giai đoạn khó khăn nhất CMC vẫn duy trì tinh thần đóng góp cho các bệnh viện tuyến đầu và Quỹ phòng, chống dịch. Đồng thời trực tiếp trao tặng máy thở oxy dòng cao HFNC, máy chủ trị giá hàng tỷ đồng, thiết bị xét nghiệm PCR cùng hàng loạt vật tư y tế cho các bệnh viện lớn như Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Nhi Trung ương, Bệnh viện Hóc Môn…
Đặc biệt, CMC còn "gắn chặt" sứ mệnh xã hội vào "DNA" doanh nghiệp thông qua việc mỗi năm tổ chức giải chạy cộng đồng để tài trợ phẫu thuật dị tật cho trẻ em nghèo. Năm 2021, tập đoàn gây quỹ cho 28 ca phẫu thuật nhân dịp kỷ niệm 28 năm thành lập, năm 2022, con số đó là 29 ca và đến năm 2023, con số là 30 ca, tương ứng với 30 năm phát triển của tập đoàn.
- Qua những bước đi của CMC, Giáo sư cảm nhận thế nào về khát vọng và tầm vóc của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới?
GS.TS. Trần Thọ Đạt: Câu chuyện phát triển của CMC, từ một doanh nghiệp công nghệ trong nước trở thành đơn vị được Chính phủ tin tưởng giao gánh vác những nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia, phản ánh một chân dung mới mẻ, đầy khát vọng và tầm vóc của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong kỷ nguyên số. Qua hành trình đó, có thể cảm nhận rõ một chuyển động sâu sắc rằng, doanh nghiệp tư nhân không còn chỉ là "lực lượng hỗ trợ nền kinh tế", mà đang từng bước khẳng định vai trò động lực quan trọng nhất trong công cuộc kiến tạo tương lai đất nước.
CMC không đơn thuần đặt mục tiêu "làm ăn có lãi" hay "vươn ra thị trường quốc tế". Họ nói đến trí tuệ Việt, nền tảng "Make in Vietnam", hệ sinh thái dữ liệu và AI quốc gia, bảo vệ chủ quyền số, những khái niệm từng được xem là đặc quyền của nhà nước hoặc các tập đoàn đa quốc gia. Điều đó cho thấy khát vọng của doanh nghiệp tư nhân ngày nay đã mang tầm quốc gia, vượt qua ranh giới lợi nhuận để trở thành lực lượng đồng kiến tạo tương lai Việt Nam. Họ bước ra khỏi vai trò "người tham gia" để trở thành "người đồng hành chiến lược" cùng Chính phủ trong các sứ mệnh quốc gia.
Với tư cách một doanh nghiệp Việt Nam độc lập, CMC đã chủ động xây dựng hệ sinh thái công nghệ lõi thay vì chỉ gia công hay làm đại lý cho các nền tảng ngoại. Đây là một lựa chọn mang tầm vóc quốc gia, vì trong nền kinh tế số, ai làm chủ nền tảng, người đó làm chủ tương lai.
Việc làm chủ hạ tầng số và AI không chỉ là lợi thế kinh tế, mà còn là an ninh quốc gia trong không gian mạng. Tầm vóc của doanh nghiệp tư nhân Việt trong kỷ nguyên mới thể hiện ở việc họ dám lựa chọn con đường khó, dài hạn, đòi hỏi tri thức, đầu tư lớn, nhưng đầy giá trị chiến lược. Đây chính là sự trưởng thành về tư duy và sứ mệnh.
Hành trình của CMC cho thấy Chính phủ đang chuyển từ "cho phép" tư nhân tham gia sang "trao quyền và kỳ vọng" tư nhân dẫn dắt. Niềm tin này không phải ngẫu nhiên, mà bắt nguồn từ sự trưởng thành về năng lực của doanh nghiệp tư nhân Việt (năng lực công nghệ, quản trị, toàn cầu hóa), tinh thần trách nhiệm cộng đồng ngày càng rõ nét, và đặc biệt là khát vọng "làm điều lớn lao" cho đất nước, điều từng bị hoài nghi trong một thời gian dài.
CMC là biểu hiện cụ thể cho tinh thần ấy - một doanh nghiệp dấn thân vào lĩnh vực khó nhất, tốn kém nhất (AI, Cloud, hạ tầng dữ liệu), nhưng vẫn kiên định với bản sắc Việt và tầm nhìn phát triển đất nước. Trong kỷ nguyên mới, khi tri thức, công nghệ và dữ liệu là lực lượng sản xuất then chốt, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam không còn là "hậu phương" mà đang vươn lên làm "mũi nhọn" của phát triển quốc gia.
Từ những gì CMC đang làm, có thể cảm nhận một thế hệ doanh nghiệp mới với bản lĩnh tự tin hội nhập, chủ động kiến tạo, không đánh đổi bản sắc để lớn nhanh, mang khát vọng Việt ra thế giới bằng tri thức Việt. Đây chính là sự trưởng thành của doanh nghiệp, là tín hiệu tích cực cho một Việt Nam đang vươn mình thành quốc gia số, độc lập, tự cường và sáng tạo.
- Trân trọng cảm ơn Giáo sư đã chia sẻ với Reatimes những góc nhìn đa chiều về câu chuyện phát triển kinh tế số và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp tư nhân như CMC.
Qua những phân tích của ông, có thể khẳng định rằng, CMC không chỉ là doanh nghiệp công nghệ, mà đang hiện thân cho một "tầm vóc doanh nghiệp tư nhân Việt trong thời đại số". Hội tụ đủ bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng để bước ra thế giới mà vẫn là chính mình chính là những tố chất nổi bật làm nên dấu ấn CMC và có thể trở thành mô hình tham chiếu đầy giá trị cho cộng đồng doanh nghiệp công nghệ Việt Nam. Họ là đại diện cho một thế hệ doanh nghiệp tư nhân Việt có khả năng không chỉ bứt phá trong nước, mà còn tạo lập giá trị, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Giai đoạn hiện tại, con đường chiến lược và thể chế căn cốt để Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - đang định hình và tạo thành nguồn lực, hào khí mạnh mẽ thôi thúc cả dân tộc tự tin, vươn mình tiến lên thịnh vượng.
Nhưng nếu muốn tạo ra đột phá thực sự, thì Việt Nam phải đột phá bằng công nghệ, lĩnh vực duy nhất đủ sức rút ngắn khoảng cách phát triển, gia tăng giá trị nội sinh và khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ thế giới. Và lực lượng có thể kiến tạo đột phá ấy, không ai khác, chính là khu vực tư nhân, những doanh nghiệp tiên phong mang trong mình khát vọng đổi mới, tinh thần sáng tạo và trách nhiệm đồng hành cùng dân tộc trên hành trình kiến tạo tương lai.
Xin kết lại bài viết bằng những chia sẻ tâm huyết của ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch HĐQT/Chủ tịch Điều hành Tập đoàn Công nghệ CMC: "Việt Nam đang đứng trước một vận hội lớn trong chuyển đổi số và chuyển đổi AI. Là doanh nghiệp công nghệ thuần Việt, CMC xác định rõ sứ mệnh của mình không chỉ là phát triển kinh doanh, mà quan trọng hơn là đóng góp thực chất vào năng lực tự chủ công nghệ quốc gia, đồng hành cùng Chính phủ trong hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết 68 để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế"./.
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!