
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: "Doanh nghiệp tư nhân sẽ là lực lượng tiên phong trong công cuộc tái thiết mô hình tăng trưởng sang xanh - số"
Khi thế giới cùng lúc đối mặt với ba cuộc khủng hoảng toàn cầu - biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học - mô hình tăng trưởng truyền thống dựa vào khai thác tài nguyên và phát triển theo chiều rộng đã dần chạm tới giới hạn.
Trong bối cảnh đó, chuyển đổi xanh - số là xu hướng tất yếu để chuyển dịch mô hình phát triển sang hướng bền vững. Chuyển đổi xanh - số cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Và hành trình đó không thể thiếu sự tham gia của khối kinh tế tư nhân.
Reatimes đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), để cùng nhìn rõ hơn hành trình, vai trò của doanh nghiệp tư nhân và trách nhiệm kiến tạo của các bên trong cuộc chuyển đổi kép này.
PV: Ông đánh giá như thế nào về xu hướng chuyển đổi xanh - chuyển đổi số đang diễn ra trên toàn cầu? Những chính sách mới nào đang tạo ra cú hích buộc các quốc gia, đặc biệt là nước đang phát triển như Việt Nam phải thay đổi?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Có thể nói chuyển đổi xanh, chuyển đổi số đang là vấn đề cấp bách toàn cầu và không thể đảo ngược. Năm 1992, Hội nghị Rio de Janeiro chính thức định hình khái niệm phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột: Kinh tế, xã hội, môi trường. Biến đổi khí hậu trở thành vấn đề ưu tiên toàn cầu do ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế và an ninh của nhiều quốc gia.
Năm 1997, Nghị định thư Kyoto là bước ngoặt lớn khi các nước công nghiệp thừa nhận trách nhiệm phát thải và cam kết hỗ trợ các nước đang phát triển. Đến năm 2015, tại COP21, Thỏa thuận Paris đánh dấu bước ngoặt lịch sử: Tất cả quốc gia phát triển hay đang phát triển, đều phải cam kết giảm phát thải công bằng. Các nước đang phát triển được thực hiện tự nguyện và có thể cắt giảm sâu hơn nếu có sự hỗ trợ quốc tế.
Chuyển đổi xanh không đơn thuần là chính sách về môi trường hay chiến lược về năng lượng, công nghiệp, đó còn là tiến trình tổng thể nhằm giải quyết đồng thời ba cuộc khủng hoảng toàn cầu lớn nhất hiện nay (biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học).
Để đối phó với thách thức biến đổi khí hậu, các quốc gia đã triển khai nhiều chính sách mạnh mẽ. EU ban hành Chương trình Fit for 55, cam kết giảm 55% phát thải vào năm 2030, cùng hàng loạt quy định như:
EUDR (chống phá rừng): Bắt buộc từ 2025 - 2026, gây khó cho nông sản Việt Nam vốn dựa vào canh tác nhỏ lẻ, thiếu truy xuất nguồn gốc.
Từ năm 2024, doanh nghiệp EU và chuỗi cung ứng toàn cầu, kể cả Việt Nam, phải báo cáo ESG.
CBAM (thuế carbon tại biên giới) có hiệu lực từ 2024, bắt đầu tính thuế từ 2026, gây áp lực lớn với hàng xuất khẩu như thép, xi măng, nhôm…
Trong bối cảnh này, chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không thích ứng kịp, Việt Nam có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu và đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội nội tại.
Chuyển đổi xanh đang là vấn đề cấp bách toàn cầu. (Ảnh minh họa)
PV: Tuy nhiên, như ông nói, quy mô kinh tế xanh của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2% GDP, trong khi 98% còn lại vẫn là kinh tế “nâu”, chứng tỏ thách thức chuyển đổi xanh với Việt Nam là rất lớn. Chính phủ đã có những chính sách gì trong vấn đề này?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Việt Nam ban đầu cam kết giảm 8% phát thải vào năm 2030, nâng lên 24% nếu có hỗ trợ quốc tế. Đến năm 2020, mức cam kết tăng lên 9% và 27%. Sau COP26 (2021), Việt Nam đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào 2050. Năm 2022, NDC được điều chỉnh thành 15,8% nếu tự lực và 43,5% khi có hỗ trợ quốc tế.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định: Lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm đột phá quan trọng hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện thể chế, và thúc đẩy phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết nhấn mạnh việc phát triển hạ tầng số, hạ tầng công nghệ hiện đại, trên nguyên tắc “hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí”. Dữ liệu được xác định là tư liệu sản xuất mới, cần được khai thác mạnh mẽ để hình thành các ngành như công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu, mở đường cho nền kinh tế số phát triển mạnh mẽ song hành cùng kinh tế xanh.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP, thuộc top 30 quốc gia hàng đầu về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời là trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới.
Những định hướng này tạo ra nền tảng chính sách then chốt để Việt Nam thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh - kinh tế số, và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
PV: Ngoài chuyển đổi xanh, Việt Nam cũng đang đứng trước một cuộc “cách mạng kép” là chuyển đổi số. Ông nhìn nhận thế nào về sự gắn bó giữa hai quá trình này trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số chắc chắn phải đi cùng nhau. Những yêu cầu kỹ thuật, giám sát, báo cáo trong quá trình chuyển đổi xanh đều đòi hỏi nền tảng dữ liệu minh bạch, số hóa, liên thông và truy xuất được theo chuẩn quốc tế.
Ví dụ trong lĩnh vực nông nghiệp, để đáp ứng các tiêu chuẩn xanh của EU và các thị trường cao cấp khác, sản phẩm nông sản phải chứng minh không có nguồn gốc từ phá rừng theo quy định EUDR của EU. Muốn vậy, toàn bộ quá trình canh tác, nuôi trồng và thu hoạch phải được ghi nhận bằng hệ thống mã hóa, blockchain và lưu trữ đám mây. Việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc số hóa là yêu cầu bắt buộc nếu chúng ta muốn duy trì vị thế xuất khẩu nông sản trong bối cảnh “xanh hóa thương mại toàn cầu”.
Các lĩnh vực khác như năng lượng, công nghiệp chế biến, sử dụng đất, lâm nghiệp, xử lý chất thải cũng đều yêu cầu phải kiểm kê và báo cáo phát thải khí nhà kính chi tiết, định kỳ. Những báo cáo này không thể thực hiện thủ công, mà cần đến hệ thống nhật ký phát thải số hóa, để đo lường, thẩm định và xác nhận lượng khí phát thải. Đây cũng là nền tảng để xây dựng tín chỉ carbon, từ đó huy động tài chính khí hậu, tài chính carbon cho doanh nghiệp và quốc gia.
Do đó, chuyển đổi số không chỉ là điều kiện cần, mà còn là công cụ quyết định trong việc hiện thực hóa chuyển đổi xanh. Hai tiến trình này phải song hành, bổ sung và cộng hưởng. Nếu chỉ có chính sách “xanh” mà thiếu “số”, chúng ta không thể đo lường, giám sát, hay chứng minh được hiệu quả để tiếp cận tài chính khí hậu, duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
PV: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển đổi xanh và chuyển đổi số hiện nay?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Kinh tế tư nhân lúc nào cũng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với cả nền kinh tế nói chung, chứ không riêng gì kinh tế xanh. Trong tiến trình chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, kinh tế tư nhân đóng vai trò then chốt, là nhờ năng lực thích ứng linh hoạt với các xu thế toàn cầu.
Nếu nhìn vào cơ cấu hiện tại, khu vực tư nhân chiếm phần lớn số lượng doanh nghiệp, tạo việc làm cho đa số người lao động, đóng góp đáng kể vào GDP, và là lực lượng chính trong chuỗi cung ứng nội địa phục vụ cho xuất khẩu. Doanh nghiệp FDI có thể sản xuất và xuất khẩu trực tiếp, nhưng đằng sau họ là cả một mạng lưới hỗ trợ từ khối doanh nghiệp tư nhân nội địa, trong đó phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong bối cảnh thế giới đang gia tăng xu hướng bảo hộ thương mại và siết chặt các hàng rào kỹ thuật - môi trường, Việt Nam không thể mãi trông chờ vào thị trường bên ngoài hay ưu đãi từ các FTA. Chúng ta bắt buộc phải quay về củng cố nội lực. Và kinh tế tư nhân chính là nội lực lớn nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giúp Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại mới như CBAM, ESG hay Net Zero.
Điều này càng đặc biệt quan trọng khi các thị trường xuất khẩu lớn đang dần yêu cầu minh bạch về phát thải, nguồn gốc nguyên liệu, và hiệu quả sử dụng tài nguyên. Nếu khu vực tư nhân không được nâng cao năng lực để đáp ứng, toàn bộ nền kinh tế sẽ bị chậm nhịp, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, xuất khẩu bị cản trở. Ngược lại, nếu được hỗ trợ đúng cách, từ chính sách tín dụng xanh, đào tạo nhân lực, tiếp cận công nghệ và hạ tầng số, doanh nghiệp tư nhân sẽ là lực lượng tiên phong trong công cuộc tái thiết mô hình tăng trưởng sang xanh - số của Việt Nam.
PV: Ông có kỳ vọng vào vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp tư nhân trong chuyển đổi xanh - số hiện nay?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Mỗi doanh nghiệp đều ưu tiên giải bài toán lợi ích nội tại của chính họ, điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng cũng có những doanh nghiệp có năng lực, tầm nhìn và văn hóa phát triển bền vững thì chủ động hơn trong việc giúp đỡ doanh nghiệp nhỏ hơn. Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường đã làm việc với quỹ đầu tư Dragon Capital, họ sẵn sàng hỗ trợ đào tạo miễn phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để phổ cập nhận thức và kỹ năng về chuyển đổi xanh - số.
Tuy nhiên, sự dẫn dắt thực chất phải đến từ các doanh nghiệp cung cấp giải pháp - là những đơn vị chuyên phát triển các công cụ, phần mềm, nền tảng giúp cho hàng ngàn doanh nghiệp khác có thể chuyển đổi với chi phí thấp hơn và hiệu quả cao hơn.
Chẳng hạn, FPT hiện nay đã xây dựng phần mềm kiểm kê phát thải khí nhà kính (GHG Inventory) và các nền tảng hỗ trợ báo cáo ESG. Đây là giải pháp công nghệ “make in Vietnam” giúp giảm đáng kể chi phí cho doanh nghiệp trong nước. Nếu sử dụng các nền tảng quốc tế như IBM ESG hay SAP ESG thì chi phí cao gấp nhiều lần, chưa kể rào cản ngôn ngữ, khả năng tùy biến phù hợp với từng doanh nghiệp và cần người hỗ trợ hướng dẫn sử dụng.
Tuy vậy, nhiều giải pháp trong nước hiện nay mới dừng ở mức “công cụ”, chưa đi kèm giải pháp tổng thể. Do đó, để biến công cụ thành giải pháp, cần có đội ngũ chuyên môn, tổ chức đào tạo, hướng dẫn, tư vấn áp dụng theo đặc thù từng doanh nghiệp. Chúng tôi cũng thường xuyên tổ chức các chương trình nâng cao năng lực, đào tạo doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi theo chuẩn quốc tế về môi trường và phát triển bền vững.
Kỳ vọng của tôi đối với khu vực tư nhân không phải là họ sẽ làm thay cho các doanh nghiệp khác, mà sẽ là người khởi xướng và cung cấp các nền tảng, mô hình kinh doanh, công cụ, hoặc giải pháp giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng tham gia vào “cuộc đua” xanh và số một cách hiệu quả. Chuyển đổi xanh và số không phải là cạnh tranh, đó là sự hợp tác giữa các thành phần trong nền kinh tế và các doanh nghiệp khác nhau, để tạo ra một chuỗi giá trị chung, bền vững.
PV: Nhưng thực tế là doanh nghiệp tư nhân, kể cả doanh nghiệp lớn vẫn đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình chuyển đổi xanh - số?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Khó khăn thì chồng chất. Trước hết là vấn đề nhận thức. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa nhận thức được tính cấp thiết của chuyển đổi xanh - số. Họ vẫn xem đó là câu chuyện “vĩ mô”, hoặc “chỉ dành cho các công ty lớn”.
Trong đó, nhiều doanh nghiệp còn quá nhỏ để cảm nhận rủi ro toàn cầu. Họ vẫn chưa hiểu mình là một thành tố trong chuỗi sản xuất tiêu dùng bền vững, gián tiếp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thông qua các doanh nghiệp lớn, vì vậy họ chậm thích ứng.
Thứ hai, là thiếu công nghệ và năng lực kỹ thuật. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu, và thiếu đội ngũ chuyên môn để vận hành, cải tiến và nội địa hóa các giải pháp phù hợp. Mà chuyển đổi xanh không thể thành công nếu doanh nghiệp không làm chủ được dữ liệu, quy trình, và hệ thống công nghệ đo lường phát thải, theo dõi chuỗi cung ứng, hay triển khai năng lượng sạch.
Thứ ba, chuyển đổi xanh - số cần chi phí đầu tư ban đầu lớn, từ thiết bị, phần mềm, đến chi phí đào tạo nhân lực và tư vấn chuyển đổi. Nhưng nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn xanh, hoặc nếu có thì không đáp ứng được điều kiện vay, do thiếu minh bạch tài chính, không có báo cáo ESG, hoặc chưa được xếp hạng tín nhiệm đủ cao. Chi phí đầu tư cao, trong khi lợi ích ngắn hạn chưa rõ ràng, khiến doanh nghiệp ngần ngại hoặc trì hoãn.
Thứ tư, là thiếu đồng bộ trong thể chế và chính sách. Dù Nhà nước đã ban hành nhiều định hướng lớn như Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định về kiểm kê khí nhà kính, hay kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh…, nhưng việc triển khai ở địa phương còn lúng túng, thiếu hướng dẫn cụ thể, thiếu bộ tiêu chí rõ ràng, doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu.
Thứ năm, là thiếu hạ tầng xanh và nền tảng chia sẻ dùng chung. Nhiều khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải, chất thải đạt chuẩn; logistics xanh còn hạn chế; các công cụ kiểm kê phát thải, báo cáo ESG chủ yếu là của nước ngoài, chi phí cao. Việc thiếu các nền tảng số dùng chung, phần mềm nội địa hóa, cơ sở dữ liệu ngành... cũng làm giảm khả năng chuyển đổi hiệu quả, đặc biệt với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vì vậy, nếu không có các cơ chế hỗ trợ rõ ràng, thiết thực, nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì cũng rất khó để thực hiện chuyển đổi xanh - số thực chất.
PV: Dù còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn vào đâu để thấy chuyển đổi xanh - số không phải là gánh nặng bắt buộc, mà là một cơ hội của doanh nghiệp và nền kinh tế, thưa ông?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Trong nguy luôn có cơ, khi chúng ta đối mặt với những áp lực mới về thuế quan hay tiêu chuẩn môi trường từ các đối tác lớn, dù khó khăn thì những điều đó cũng là cơ hội để chúng ta nâng cao nhận thức, năng lực và hành động.
Lịch sử tự nhiên và kinh tế đều cho thấy, không phải cá thể mạnh nhất hay nhanh nhất sẽ tồn tại, mà là cá thể thích nghi tốt nhất. Trong thương mại và sản xuất hiện đại, doanh nghiệp nào thích ứng nhanh, chủ động thay đổi mô hình và biết áp dụng công nghệ xanh, công nghệ số, doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển.
Khu vực doanh nghiệp tư nhân vốn năng động và có khả năng chuyển đổi nhanh chóng nếu được hỗ trợ đúng đắn. Vì vậy, tôi cho là không nên lo ngại, trì hoãn trước các tiêu chuẩn ESG, tín chỉ carbon hay trách nhiệm trong chuỗi cung ứng xanh. Ngược lại, cần coi chuyển đổi xanh và số chính là cơ hội để khu vực doanh nghiệp tư nhân bước vào một chuẩn phát triển mới, cao hơn, bền vững hơn, và có thể tiếp cận thị trường toàn cầu tốt hơn.
Trong bối cảnh yêu cầu chuyển đổi xanh và số ngày càng rõ nét, đặc biệt từ các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… không còn cách nào khác, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phải biết chuyển hóa áp lực thành động lực, biến thách thức thành cơ hội để nâng cấp chính mình. Phải làm thôi, nếu không chúng ta sẽ đứng ngoài chuỗi cung ứng toàn cầu.
PV: Theo ông, chúng ta có thể rút ra bài học gì từ thực tiễn gần đây để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Từ năm 2017, chúng ta đã có bài học từ câu chuyện ngành thủy sản. Do chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về quản lý khai thác thủy sản bền vững và chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), nên EU đã có chính sách kiểm tra nghiêm ngặt hơn. Thời gian thông quan kéo dài từ 7 - 14 ngày, tăng chi phí lưu kho và rủi ro mất/giảm đơn hàng từ các đối tác lớn. Suốt 8 năm qua chúng ta vẫn chưa gỡ được “thẻ vàng” này và hiện vẫn tăng cường các biện pháp để đạt được mục tiêu gỡ bỏ thẻ vàng trong thời gian tới.
Ngành dệt may cũng từng có kinh nghiệm với Bangladesh, trong giai đoạn 2020 - 2021. Dưới sự hỗ trợ của quốc tế, nước này đã nhanh chóng xanh hóa ngành dệt may, xây dựng nhiều nhà máy đạt chuẩn quốc tế. Trong tháng 12/2022 và cả năm 2023, họ chiếm 10% thị phần xuất khẩu dệt may của Việt Nam, khiến chúng ta mất từ 4,5 - 5 tỷ USD.
Rút kinh nghiệm, trong năm 2024, doanh nghiệp dệt may chi tới 15 triệu USD để hoàn thiện hệ thống báo cáo phát triển bền vững nhằm đáp ứng yêu cầu từ các thị trường khó tính. Đây là con số đáng đầu tư, để cứu thị trường dệt may có giá trị hơn 44 tỷ USD. Doanh nghiệp lớn ngành dệt may cũng rút ra bài học, họ phải bám sát Hiệp hội Dệt may quốc tế để cập nhật các chính sách, quy định mới/thay đổi từ các quốc gia nhập khẩu.
Nhưng doanh nghiệp vừa và nhỏ không làm được như vậy, thì phải bám sát các hiệp hội ngành nghề trong nước. Các hiệp hội này sẽ cập nhật thông tin, chính sách từ các hiệp hội quốc tế và hướng dẫn doanh nghiệp nội địa thực hiện kịp thời. Lưu ý, nếu chúng ta đi quá nhanh thì chi phí đầu tư cao, đội giá thành sản phẩm, khó cạnh tranh, còn đi chậm thì sẽ mất thị trường.
Đồng thời, doanh nghiệp cần tâm niệm rằng, thế giới đang tập trung giải quyết ba cuộc khủng hoảng lớn nhất hiện nay, đó là biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học. Mỗi bước đi của doanh nghiệp đều phải tránh gây tổn hại môi trường, hướng tới các giải pháp như giảm nhựa dùng một lần, giảm ô nhiễm không khí - nguồn nước, bảo vệ rừng và các hệ sinh thái.
PV: Theo ông, Nhà nước có thể hỗ trợ gì để doanh nghiệp tư nhân thực hiện chuyển đổi xanh và chuyển đổi số hiệu quả, thực chất?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Với gần 98% doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là vừa, nhỏ và siêu nhỏ, nếu Nhà nước không có chính sách hỗ trợ tập trung và kịp thời, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội chuyển đổi toàn diện nền kinh tế.
Do đó, việc đầu tiên là xây dựng một hệ thống thể chế, chính sách đồng bộ, minh bạch và ổn định, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn mà không lo bị gián đoạn bởi những thay đổi chính sách đột ngột.
Thứ hai, Nhà nước cần đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng xanh - không chỉ là giao thông hay năng lượng tái tạo, mà còn bao gồm hạ tầng cho kinh tế tuần hoàn, như khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị xanh, hệ thống thu gom tái chế, hạ tầng phát thải thấp… Đây là những lĩnh vực đang thiếu hụt nghiêm trọng, làm cản trở quá trình dịch chuyển từ nền kinh tế "nâu" sang nền kinh tế xanh.
Thứ ba, cần tập trung vào 3 trụ cột hỗ trợ chuyển đổi xanh đã được nêu rõ trong Thỏa thuận Paris, gồm tài chính khí hậu, công nghệ xanh, và tăng cường năng lực xanh.
Trong đó, đào tạo nhân lực xanh và số đóng vai trò cốt lõi. Vì vậy, việc đầu tư vào giáo dục công nghệ từ giai đoạn mầm non đến đại học phải được đặt lên hàng đầu. Chúng ta cần tạo ra một thế hệ lao động mới, không chỉ có tư duy số hóa, mà còn làm chủ được công nghệ, đủ sức thích ứng với các xu hướng công nghệ mới như AI, dữ liệu lớn, công nghệ xanh... Phải bắt đầu từ hôm nay, thì 10 năm nữa Việt Nam mới có thể sở hữu một lực lượng đủ mạnh để không những theo kịp, mà còn cạnh tranh được trên sân chơi toàn cầu.
Một điểm quan trọng khác là chi phí chuyển đổi xanh - số rất lớn. Với một doanh nghiệp nhỏ, chi phí lập báo cáo phát thải khí nhà kính hay xây dựng hệ thống ESG có thể vượt quá khả năng tài chính của họ. Vì vậy, việc phát triển các hiệp hội ngành hàng, cung cấp nền tảng dùng chung như phần mềm kiểm kê phát thải, công cụ lập báo cáo ESG, hay hệ thống đánh giá tín chỉ carbon... sẽ giúp giảm chi phí đáng kể và nâng cao khả năng tuân thủ.
Chúng ta đã có những tiền lệ tích cực: VCCI đã hỗ trợ xây dựng Bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI), giúp doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trách nhiệm giải trình hiệu quả hơn, hay việc một số tổ chức quốc tế tài trợ phần mềm kiểm kê khí nhà kính miễn phí. Những công cụ như thế này cần được phát triển, truyền thông lan tỏa, để cộng đồng doanh nghiệp tư nhân biết đến rộng rãi và tham gia.
PV: Như ông đã chia sẻ, chuyển đổi xanh - số không phải là một cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, chúng ta cần sự đoàn kết, cùng nhau thực hiện chuyển đổi?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Đến thời điểm này, kinh tế xanh chỉ chiếm khoảng 2% GDP Việt Nam. Nhưng nếu mọi doanh nghiệp tư nhân cùng chuyển đổi, thì chúng ta có thể đưa toàn bộ nền kinh tế vào một quỹ đạo mới, xanh - số - bền vững. Quan trọng hơn, chuyển đổi xanh - số sẽ không còn là điều xa xỉ hay quá phức tạp nếu có sự đồng hành từ ba phía: Nhà nước, doanh nghiệp, và hệ thống hỗ trợ trung gian. Việc chia sẻ dữ liệu, cùng sử dụng nền tảng công nghệ, cùng tham gia chuỗi cung ứng tuần hoàn sẽ giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả và thúc đẩy lan tỏa.
Thực tiễn quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản hay Hàn Quốc cho thấy, chính các doanh nghiệp nhỏ và ngành công nghiệp phụ trợ là nền tảng để hình thành một nền sản xuất hiện đại. Tại Việt Nam, nếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa được đào tạo bài bản, cung cấp công cụ chung, hướng dẫn cụ thể, thì họ hoàn toàn có thể trở thành lực lượng nòng cốt trong mô hình sản xuất - tiêu dùng tuần hoàn, giảm phát thải carbon và áp dụng chuyển đổi số toàn diện. Việc hỗ trợ họ thực hiện chuyển đổi một cách dễ tiếp cận, hiệu quả và có lộ trình rõ ràng là nhiệm vụ chiến lược của quốc gia.
Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là đối tượng cần hỗ trợ, mà còn là chủ thể quyết định thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi. Chính vì vậy, sự đoàn kết, chia sẻ, và nâng đỡ lẫn nhau trong cộng đồng doanh nghiệp là điều cần thiết để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh - số.
PV: Dù có thực hiện chính sách gì đi nữa, thì điểm quan trọng vẫn phải có là tài chính xanh. Thực tế, dù đã có nhiều định hướng và cam kết về tài chính xanh, nhưng dòng vốn vẫn chưa chảy mạnh vào các dự án xanh. Quan điểm của ông trong vấn đề này như thế nào?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Trong chuyển đổi xanh, chúng ta đã thể hiện cam kết mạnh mẽ, từ việc ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, xây dựng hệ thống tiêu chí phân loại dự án xanh, cho tới việc cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Tuy nhiên, dòng vốn thực sự dành cho các dự án xanh vẫn rất khiêm tốn, thậm chí còn mang tính chất “thử nghiệm”.
Theo Thỏa thuận Paris, các nước phát triển đã cam kết dành 100 tỷ USD mỗi năm từ năm 2009 để hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện chuyển đổi xanh. Con số này được nâng lên thành 300 tỷ USD/năm tại COP29 (2024). Nhưng đến nay, Việt Nam mới chỉ tiếp cận được một phần rất nhỏ của nguồn lực này. Có khoảng 15,5 tỷ USD hỗ trợ đầu tiên từ các đối tác quốc tế nhưng chúng ta vẫn chưa tiêu được. Điều đó chứng tỏ, năng lực hấp thụ dòng vốn quốc tế của chúng ta còn yếu.
Ở trong nước, ba điểm nghẽn nổi bật là khung pháp lý chưa mang tính bắt buộc; thiếu cơ chế khuyến khích và chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp, đặc biệt là khối tư nhân; và sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các bên liên quan. Điều này khiến dòng vốn xanh chưa thể đi vào các lĩnh vực thực sự cần thiết như năng lượng tái tạo, giao thông bền vững hay công trình xanh. Ngoài thể chế, chúng ta cũng chưa có hạ tầng tiếp nhận và hệ sinh thái kỹ thuật đủ mạnh để vận hành các dự án lớn, có yếu tố quốc tế.
Trong khi đó, theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, để nâng cấp hạ tầng và công nghệ phục vụ chuyển đổi xanh, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022 - 2040.
Theo lộ trình của Thỏa thuận Paris, nguồn hỗ trợ quốc tế sẽ kết thúc vào năm 2030, và sau đó sẽ mở ra một vòng đàm phán mới để xác định các hình thức hỗ trợ tiếp theo. Vì vậy, việc tận dụng giai đoạn hiện tại để đẩy nhanh huy động tài chính khí hậu, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực thể chế là yêu cầu cấp bách với Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp.
PV: Ngoài những chính sách trên, theo ông, có giải pháp gì giúp chúng ta đi nhanh hơn và hút dòng vốn xanh hiệu quả hơn?
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ: Nếu chỉ dựa vào chính sách chung, mọi thứ sẽ rất chậm. Cũng không thể chuyển đổi xanh - số chỉ bằng khẩu hiệu hay hội thảo. Phải có nơi để làm thật, làm trước, làm nhanh. Đó là vai trò của các khu vực Net Zero, vừa là “đặc khu xanh”, vừa là trung tâm thử nghiệm chính sách, sẽ có thể giúp nền kinh tế rút ngắn thời gian chuyển mình.
Đặc khu Thâm Quyến (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc), hay Singapore đều có điểm chung là: Thể chế biệt lập, linh hoạt về thuế, visa, dòng vốn; không áp dụng máy móc chính sách, thay vào đó là sandbox thể chế để thử nghiệm công nghệ, môi trường đầu tư mới; thu hút dòng tiền đầu tư bằng ưu đãi hợp lý, ví dụ miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ thu tiền sử dụng đất hoặc chi phí quản lý cố định.
Việt Nam có Phú Quốc, Vân Đồn và Vân Phong là những địa phương có vị trí biệt lập, thuận lợi về giao thương và đủ điều kiện thử nghiệm thể chế. Ở các vùng này, chúng ta có thể triển khai thị trường tín chỉ carbon, vận hành các dự án năng lượng sạch, du lịch xanh, logistics bền vững; thí điểm mô hình sản xuất ít phát thải, kiểm nghiệm báo cáo ESG, thử cơ chế định giá tài nguyên và carbon; hình thành hệ sinh thái công nghệ xanh - số, kết nối startup, các viện nghiên cứu và nhà đầu tư quốc tế.
Phát triển các khu vực Net Zero không chỉ giúp hiện thực hóa cam kết 2050, mà còn thu hút tài chính xanh, tài chính carbon và thúc đẩy chuyển đổi kinh tế từ “nâu” sang “xanh”. Muốn tăng trưởng bền vững, thay vì trông chờ vào đầu tư công ngắn hạn, chúng ta cần bước ra khỏi tư duy cũ, mạnh dạn thiết kế khu vực thể chế đặc biệt, thử nghiệm cơ chế mở để thu hút vốn, công nghệ và nhân lực chất lượng cao.
- Trân trọng cảm ơn ông với những gợi mở hữu ích. Hy vọng chúng ta sẽ sớm nhìn thấy những chuyển động rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn trong hành trình chuyển đổi xanh - số của nền kinh tế!
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Mùa xuân năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được xem xét, định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Một nghị quyết mới về kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Đầu tháng 3, chủ trì buổi làm việc với Ban Chính sách và Chiến lược Trung ương về một số giải pháp chiến lược nhằm tạo đột phá phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy và tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân, xóa bỏ những định kiến, tư duy không đúng để tạo sự thay đổi trong "ứng xử" và hành động, chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế quan trọng này, đồng thời phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển kinh tế tư nhân.
Trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư khẳng định: Chúng ta cần phải quán triệt lại định hướng quan điểm và nhận thức trong cả hệ thống chính trị về vai trò của kinh tế tư nhân như là động lực tăng trưởng quan trọng hàng đầu của đất nước. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong hoạch định chính sách, khắc phục những hạn chế và phát huy tính ưu việt của cơ chế thị trường để hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân nâng cao năng suất lao động và đổi mới sáng tạo.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đang nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!