Mới đây, Thanh tra Chính phủ đã có kết luận Thanh tra 1869/KL-TTCP về việc cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tại một số tỉnh khu vực phía Nam cung cấp cho dự án giao quan trọng quốc gia.
Kết luận thanh tra cho thấy, trên địa bàn 3 tỉnh Đồng Tháp, Đồng Nai và Bình Thuận, theo quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025- 2030, trữ lượng vật liệu san lấp cao hơn nhiều so với nhu cầu của các dự án cao tốc Vĩnh Hảo- Phan Thiết, Phan Thiết- Dầu Giây, Cầu Mỹ Thuận và đường dẫn 2 đầu cầu.
Tuy nhiên, tại thời điểm triển khai dự án, chỉ có dự án Cầu Mỹ Thuận và đường dẫn 2 đầu cầu không gặp khó khăn về vật liệu san lấp, 2 dự án còn lại không đủ nguồn cung cấp do phần lớn trữ lượng vật liệu san lấp thuộc khu vực quy hoạch (chưa được cấp phép hoạt động), các khu vực mỏ vật liệu san lấp đang hoạt động (đã được cấp phép trước đây) có trữ lượng và công suất được phép khai thác quá thấp so với nhu cầu của dự án (công suất khai thác tại tỉnh Bình Thuận đạt 1,054 triệu m3/năm; tại tỉnh Đồng Nai chỉ đạt 60.334 m3/năm).
Theo quy hoạch và thực tế hoạt động khai thác khoáng sản làm vật liệu - xây dựng thông thường trên địa bàn tỉnh, UBND các tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai và Đồng Tháp đã phối hợp, chỉ đạo cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cung cấp đầy đủ thông tin liên quan, làm cơ sở để đơn vị tư vấn và chủ đầu tư các dự án xác định nguồn vật liệu san lấp trong quá trình thực hiện việc khảo sát xây dựng, lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán và lựa chọn nhà thầu.
Trên cơ sở hồ sơ thiết kế, dự toán xây dựng công trình được phê duyệt, hồ sơ dự thầu của nhà thầu cũng thể hiện việc sử dụng vật liệu san lấp tại các khu vực mỏ đã cấp phép và khu vực hoạt động khoáng sản trong quy hoạch được UBND tỉnh phê duyệt. Tuy nhiên, qua thực tế thực hiện, ngoại trừ dự án đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2 và đường dẫn 2 đầu cầu, 02 dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Vĩnh Hảo- Phan Thiết và đoạn Phan Thiết- Dầu Giây gặp khó khăn, vướng mắc và chậm trễ do không đủ nguồn cung cấp vật liệu san lấp.
Thanh tra Chính phủ cho rằng, nguyên nhân khách quan chủ yếu do có sự chồng chéo, vướng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật về khoáng sản, đất đai và đầu tư: theo khoản 1 Điều 51 Nghị định số 158/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định thành phần hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với nhà đầu tư trong nước phải có quyết định chủ trương đầu tư; theo khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư năm 2020, để được cấp quyết định chủ trương đầu tư, nhà đầu tư phải có quyền sử dụng đất, trong khi đó theo điểm đ khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 thì khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không thuộc trường hợp thu hồi đất, nhà đầu tư phải thỏa thuận với dân để có đất. Các quy định này dẫn đến việc cấp giấy phép khai thác các khoáng sản mất nhiều thời gian.
Nguyên nhân chính về chủ quan là do khâu khảo sát, đánh giá tình hình của đơn vị tư vấn chưa kỹ càng, không xác định đầy đủ tính pháp lý của khu vực dự kiến cung cấp vật liệu cho dự án; khi khảo sát thì đơn vị tư vấn đánh giá đạt yêu cầu nhưng sau khi công trình được khởi công thì nhà thầu xác định không đảm bảo chất lượng để sử dụng làm vật liệu san lấp phục vụ dự án...; dẫn đến phải tiếp tục đề nghị cấp thẩm quyền thực hiện các thủ tục bổ sung quy hoạch khoáng sản, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cấp phép khai thác khoáng sản và thực hiện các thủ tục đất đai để được khai thác khoáng sản theo quy định (tỉnh Bình Thuận) hoặc đề nghị cấp thẩm quyền thực hiện các thủ tục cải tạo đất nông nghiệp gắn với thu hồi khoáng sản cung cấp cho dự án (tỉnh Đồng Nai).
Bên cạnh đó, do năng lực của nhà thầu có mặt còn hạn chế, chưa xác định hoặc chuẩn bị được đầy đủ nguồn cung cấp vật liệu san lấp khi tham gia dự thầu và sau khi trúng thầu.
Đối với 2 tỉnh Đồng Nai, Đồng Tháp, trách nhiệm thuộc về Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, Giám đốc Sở TN&MT cùng các tổ chức, cá nhân liên quan (do Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm xác định).
Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo Bộ trưởng Bộ GTVT, tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên - đến việc chậm trễ và thiếu sót trong xác định nguồn vật liệu san lấp cho quan các dự án thành phần Đầu tư xây dựng đoạn Vĩnh Hảo- Phan Thiết, Phan Thiết- Dầu Giây và dự án Đầu tư xây dựng Cầu Mỹ Thuận và đường dẫn 2 đầu cầu, trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục trong thời gian tới. Trường hợp phát hiện vi phạm đến mức phải xử lý trách nhiệm thì xem xét có hình thức xử lý phù hợp theo quy định.
Chỉ đạo Ban Quản lý dự án 7 và Ban Quản lý dự án Thăng Long rà soát để xem xét việc điều chỉnh đơn giá của vật liệu san lấp đã xác định trong dự toán của Dự án cao tốc Vĩnh Hảo- Phan Thiết và Dự án cao tốc Phan Thiết- Dầu Giây theo đúng quy định pháp luật.
Chủ trì phối hợp với Bộ TN&MT và các bộ, ngành, địa phương có liên quan nghiên cứu, có ý kiến đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định về việc bổ sung cơ chế đặc thù cụ thể theo từng khu vực, địa phương đối với việc thu hồi vật liệu san lấp qua phương án hạ cote nền, cải tạo đất nông nghiệp như đã thực hiện tại tỉnh Đồng Nai.
Đối với Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận, chỉ đạo kiểm điểm xử lý về việc chậm trễ trong giải quyết hồ sơ chuyển nhượng và chuyển mục đích sử dụng đất tại các mỏ đất được cấp phép khai thác theo cơ chế đặc thù của Chính phủ theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Đối với Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, tổ chức kiểm kiểm làm rõ trách nhiệm, qua đó xem xét, xử lý phù hợp theo quy định đối với các tập thể, cá nhân có khuyết điểm vi phạm trong việc cho phép thu hồi phép thu hồi vật liệu san lấp cung cấp cho dự án cao tốc Phan Thiết- Dầu Giây, việc gia hạn giấy phép không đúng quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Khoáng sản năm 2010 và việc cấp phép khai thác đá tại khu vực mỏ đã khoanh định thuộc khu vực không đấu giá quyền khai thác nhưng không chỉ định cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Qua quá trình kiểm điểm, xử lý, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra xem xét theo thẩm quyền.
Thực hiện rà soát các giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã cấp và gia hạn, tăng thời hạn trên địa bàn tỉnh theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010, trong đó có các giấy phép đã gia hạn, tăng thời hạn khai thác nêu tại điểm 2.2 Phần kết luận trên, thu hồi đối với các giấy phép được cấp và gia hạn, tăng thời hạn không đúng quy định của pháp luật. Trong thực hiện nếu có vướng mắc phát sinh thì báo cáo Bộ TN-MT xem xét, hướng dẫn thực hiện.
Chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền tăng cường kiểm tra, giám sát, đảm bảo đơn vị thi công tuân thủ các quy định liên quan đến thu hồi vật liệu san lấp, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước theo quy định. Rà soát, thực hiện việc thu nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với các tổ chức được phép thu hồi vật liệu san lấp cung cấp cho dự án cao tốc Phan Thiết- Dầu Giây theo phương án hạ cốt nền, cải tạo đất nông nghiệp đã phê duyệt theo quy định. Đồng thời, chỉ đạo thực hiện việc ký quỹ phục hồi môi trường đối với các tổ chức được phép khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh theo đúng quy định.
Đối với Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm, qua đó xem xét, xử lý phù hợp theo quy định đối với các tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong việc gia hạn giấy phép không đúng quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Khoáng sản năm 2010 và việc cấp phép khai thác cát tại các khu vực đã khoanh định thuộc khu vực không đấu giá quyền khai thác nhưng không xác định cung cấp riêng cho các công trình theo quy định tại khoản 5 Điều 12 Nghị định 15/2012/NĐ-CP và điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định 158/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Qua quá trình kiểm điểm, xử lý, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra xem xét theo thẩm quyền.
Chỉ đạo rà soát các giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã cấp và gia hạn trên địa bàn tỉnh theo quy định của Luật Khoáng sản năm 2010, xem xét thu hồi các giấy phép còn hiệu lực hoạt động (ngoại trừ các giấy phép cấp qua đấu giá hoặc được xác định cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định 158/2016/NĐ-CP) hoặc điều chỉnh giấy phép (nếu đủ điều kiện) nhằm đảm bảo chỉ cung cấp cho các công trình theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Nghị định 158/2016/NĐ-CP của Chính phů./.