Thể chế - Cốt lõi là tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ của quốc gia
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định phải xây dựng đồng bộ thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 tiếp tục xác định ba đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao và đẩy mạnh xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Trong đó có thể coi việc hoàn thiện thể chế có tính mở đường, đóng vai trò kiến tạo, nhất là trong thời đại số hóa mở ra những vấn đề chưa có tiền lệ.
******
Từ đổi mới toàn diện đến xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững
Hiện nay, trên thế giới, cả về lý luận và thực tiễn, đều có sự thống nhất cao rằng: Thể chế là một trong số ít yếu tố giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của một quốc gia nói chung hay trong từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội nói riêng. Thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển; thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm biến dạng sự phát triển, có thể đưa đến sự khủng hoảng. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức đúng và xây dựng được một thể chế phát triển phù hợp, hiệu quả.
Về phương diện nhận thức, có thể nêu khái quát chung nhất: Thể chế là phương thức vận hành (vận động) của một cấu trúc xã hội, trong đó các chủ thể hoạt động và tương tác với nhau theo những quy định (quy tắc) xác định, trong những môi trường cụ thể (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tự nhiên…), nhằm đưa cấu trúc xã hội đó vào một trạng thái - trình độ phát triển nào đó hướng tới những mục tiêu đặt ra. Như vậy, thể chế bao gồm ba yếu tố cấu thành chủ yếu là: Các chủ thể tham gia (gọi là người chơi); hệ thống quy tắc vận hành và tương tác giữa các chủ thể (gọi là luật chơi); và nội dung mà các chủ thể hoạt động (gọi là sân chơi).
Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới (1986), Đảng ta chưa đưa ra khái niệm "thể chế phát triển"; nhưng đã xác định phải đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Trong đổi mới kinh tế, đặt trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng đã xác định mối quan hệ "giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị" là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong quá trình phát triển theo định hướng CNXH.
Do điều kiện lịch sử cụ thể, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong giai đoạn cho đến trước Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước mới chính thức xác định và tập trung cao về xây dựng và hoàn thiện "thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên, từ yêu cầu của giai đoạn mới, từ tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ tư nhấn mạnh phải "tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước". Đại hội XIII cũng chính thức xác định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước"; đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ trung tâm trong sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong giai đoạn mới. Đột phá về xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ theo chiều sâu có tầm quan trọng trực tiếp tạo nên động lực đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Tại cuộc họp lần thứ nhất của Tiểu ban văn kiện Đại hội XIV (ngày 23/2/2024), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ phải "hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên những trụ cột là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Việc Đại hội XIII của Đảng xác định rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của nhiệm vụ "tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển", và đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ phải "hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước" trong giai đoạn mới, cho thấy nhận thức lý luận - thực tiễn của Đảng về công cuộc đổi mới đã có bước phát triển rất quan trọng, trong đó có nhiệm vụ phải xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước đồng bộ về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả.
"Thể chế vượt trội" tạo động lực phát triển
Hiện nay, trên thế giới, quan niệm chung cho rằng thể chế phát triển nhanh - bền vững của một đất nước phải đáp ứng các yêu cầu sau: Đảm bảo sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao, thể hiện cả ở tăng trưởng về số lượng, quy mô và sự tăng lên không ngừng về chất lượng, hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ tương đối cao cần được duy trì trong một thời gian tương đối dài và đảm bảo sự đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và năng lực độc lập tự chủ của quốc gia. Đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái.
Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh - bền vững, thể chế phát triển cần được xây dựng phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước; các yêu cầu và mục tiêu phát triển nhanh - bền vững cũng phải được cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn, từng bước tiếp cận với các giá trị chung của nhân loại.
Thể chế phát triển nhanh - bền vững, xét về bản chất phải là thể chế "dung hợp", đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp giữa thể chế chính trị với thể chế kinh tế và thể chế xã hội để tạo động lực phát triển. Từ thực tiễn phát triển của các nước, nhất là các nước có trình độ còn tương đối thấp nhưng đạt được sự phát triển nhanh, có thể thấy trong các đặc trưng cơ bản của thể chế phát triển nhanh - bền vững nổi lên đặc trưng cơ bản: đó phải là một thể chế vượt trội, có khả năng đón nhận được các cơ hội, những xu hướng phát triển mới, thay đổi với tốc độ nhanh, mang tính đột phá, như cuộc CMCN 4.0; "hóa giải"được các thách thức, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, huy động được tất cả các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả để tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ. Mặt khác, thể chế phát triển nhanh - bền vững phải đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế môi trường sinh thái, trong những điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của đất nước. Trong đó, đề cao vai trò chủ thể của nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức trong xã hội trong sự phát triển; coi trọng đổi mới, sáng tạo; phát huy cao nhân tố con người. Phân phối thành quả và lợi ích phát triển hài hòa, tương đối công bằng giữa các tầng lớp, thành viên xã hội; quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, đối tượng yếu thế. Tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội; gắn kết được các lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc, tạo được niềm tin và ý chí chấn hưng quốc gia của dân tộc - đó là động lực cốt lõi của thể chế phát triển nhanh - bền vững.
Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể chế phát triển nhanh - bền vững là một tổng thể hữu cơ các thể chế phát triển thành phần, gồm: Thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế môi trường sinh thái; trong đó, thể chế chính trị giữ vai trò quyết định về định hướng phát triển của tất cả các thể chế thành phần. Vấn đề trung tâm - cốt lõi của thể chế là phải tạo được động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng, kết nối thành động lực phát triển của cả dân tộc. Trong đó, mỗi thể chế thành phần cần hướng tới tạo lập các giá trị đặc trưng cơ bản của mình, đồng thời tương tác với các thể chế khác để tạo động lực tổng hợp cho sự phát triển. Cụ thể là:
Thể chế chính trị cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: Giá trị quyền lực chính trị chân chính, thúc đẩy phát triển, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; giá trị pháp quyền và dân chủ; giá trị quyền con người và quyền công dân; giá trị lý tưởng, giá trị dân tộc - chấn hưng đất nước. Xây dựng Đảng và Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, kiến tạo phát triển.
Thể chế kinh tế cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: Tôn trọng và bảo vệ quyền tài sản chính đáng; lợi ích kinh tế chính đáng gắn với trách nhiệm xã hội của tất cả các chủ thể trong xã hội; tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh công khai, minh bạch, bình đẳng, lành mạnh; xác lập và bảo vệ lợi ích liên kết, hợp tác, chia sẻ giữa các chủ thể; thúc đẩy đổi mới - sáng tạo. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiệu lực, hiệu quả.
Thể chế xã hội cần xây dựng và thực thi các giá trị chủ yếu sau: Phát triển các giá trị con người, giá trị công dân; đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội; cố kết cộng đồng và đồng thuận xã hội; trật tự và an toàn xã hội, không để xảy ra xung đột xã hội; chia sẻ hài hòa thành quả phát triển giữa các tầng lớp, chủ thể; xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc, "không để ai bị bỏ lại phía sau".
Thể chế môi trường sinh thái tập trung xây dựng và hiện thực hóa các giá trị chủ yếu sau: Tạo môi trường sống hài hòa giữa con người, xã hội với tự nhiên; bảo vệ môi trường sinh thái; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển nền kinh tế xanh và tiêu dùng xanh…
Thể chế hội nhập quốc tế tập trung xác định và thực thi những giá trị cốt lõi trong hội nhập quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, như: Bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giá trị hợp tác, liên kết, cộng đồng trách nhiệm, cùng có lợi; đấu tranh, tham gia kiến tạo những giá trị chung của nhân loại…
Trong xây dựng thể chế phát triển, để tạo được động lực phát triển mạnh mẽ, cần lưu ý đặc biệt tới vai trò của thể chế, cơ chế liên kết giữa các chủ thể, các yếu tố (vật chất và phi vật chất) theo một cấu trúc, mô hình phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan, quy luật khách quan, sẽ tạo nên động lực lớn theo "cấp số nhân" thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển.
Ngày nay, cả về lý luận và thực tiễn phát triển trên thế giới cho thấy rằng, để một đất nước phát triển nhanh - bền vững, lên một trình độ cao, phải dựa trên một thể chế phát triển đồng bộ giữa kinh tế - chính trị - xã hội - môi trường sinh thái. Vai trò của thể chế đối với sự phát triển nhanh - bền vững của đất nước được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và cơ chế vận hành nền chính trị - kinh tế - xã hội của quốc gia; xác lập cơ chế phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước pháp quyền. Đưa ra đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển; xác định hệ giá trị phát triển; định hướng và điều tiết sự phát triển của xã hội phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan.
Xác lập mô hình và thể chế nhà nước, nền hành chính để thực thi quyền lực chính trị gắn với sự phát triển mọi mặt của xã hội; phòng ngừa và ngăn chặn sự suy thoái, tha hóa của quyền lực. Đồng thời, tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng loại chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển có hiệu quả; giúp cho mọi hoạt động của các chủ thể trở nên minh bạch hơn, tin cậy hơn, giảm thiểu các "xung đột" trong quá trình tương tác với nhau. Tạo lập và thực thi cơ chế vận hành và kiểm soát việc thực thi thể chế có hiệu quả; phòng ngừa, khắc phục các rủi ro, tiêu cực.
Mặt khác, tạo lập cơ chế, chính sách huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển; tạo động lực phát triển (động lực tinh thần, động lực pháp lý, động lực lợi ích, động lực đạo đức…), nhất là động lực cộng hưởng thông qua sự liên kết giữa các chủ thể và các yếu tố; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể. Tạo lập "sân chơi" lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực; nhất là đối với các doanh nghiệp.
Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; kết nối được các giá trị của dân tộc với các giá trị chung của nhân loại.
Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh đất nước phát triển theo chiều sâu
Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được các mục tiêu rất cao này, đất nước nhất thiết phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, vào nguồn lực con người chất lượng cao, trình độ cao. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững, trong đó bảo đảm sự đồng bộ giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái, và thể chế hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh, hội nhập với môi trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, có nhiều cơ hội lớn gắn liền với những thách thức không nhỏ, đặt ra yêu cầu xây dựng thể chế phát triển phải phát huy cao nhất các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phải thích ứng, kết nối được với các xu thế phát triển khách quan trên thế giới.
Phải thể hiện mối quan hệ biện chứng trong thể chế phát triển là: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng "vượt trước"; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội; thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa với tự nhiên; thể chế hội nhập quốc tế đóng vai trò kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Thể chế phát triển được xây dựng phù hợp, đồng bộ sẽ tạo được mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới - ổn định - phát triển; tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh - bền vững; trong đó phát triển là mục tiêu, đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện. Cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển là "mối quan hệ động", cần được xác định phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển cụ thể, trong từng lĩnh vực cụ thể, trong mỗi giai đoạn phát triển.
Trong bối cảnh phát triển mới, thể chế chính trị (trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo - cầm quyền của Đảng) đòi hỏi phải đổi mới có "tính vượt trước", tính định hướng dẫn đường, thể hiện ở nắm bắt xu thể phát triển của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Nâng cao vai trò, năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị; nâng cao năng lực quản lý - quản trị kiến tạo phát triển của Nhà nước, nâng cao năng lực định hướng và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, năng lực dự báo và điều chỉnh chiến lược phát triển; xác định, xây dựng, thực thi, bảo vệ và tôn vinh các giá trị con người, giá trị công dân, giá trị xã hội, giá trị cộng đồng, giá trị dân tộc; nhất là các giá trị dân chủ, sáng tạo, trách nhiệm xã hội, đáp ứng với yêu cầu phát triển mới. Đây là động lực nội sinh cốt lõi của sự phát triển bền vững. Trên cơ sở xác định rõ và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, triển khai xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng và thực hiện hiệu quả cơ chế "Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ".
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế. Trong đó cần hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc "nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - xã hội (doanh nghiệp và người dân) năng động, sáng tạo". Từ đó tạo sự cộng hưởng phát huy những mặt mạnh, hạn chế những điểm yếu của cả Nhà nước, thị trường và xã hội, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhà nước mạnh không phải là Nhà nước "to" về bộ máy, đông về đội ngũ công chức; mà phải là một Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển, quản trị phát triển, có chiến lược phát triển đúng đắn, mạnh về xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, mạnh về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức "thực đức - thực tài"; mạnh về quản lý vĩ mô, về năng lực quản lý - quản trị phát triển, mạnh về năng lực phản ứng chính sách trước những biến đổi của môi trường phát triển…
Đồng thời hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô, đây là yêu cầu rất quan trọng đi liền với giữ vững ồn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng và thực thi có hiệu quả chiến lược, mô hình, cơ chế, chính sách chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu (chung của cả nền kinh tế và riêng từng ngành, lĩnh vực). Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư (nhất là thể chế đầu tư công), tài cơ cấu nền tài chính - tín dụng theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao chế độ trách nhiệm, đáp ứng với yêu cầu phát triển nền kinh tế xanh và các mô hình kinh tế hiện đại.
Mặt khác, hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả các khu vực, thành phần kinh tế (nhà nước, cá thể, tư nhân, tập thể, FDI…), nhằm phát huy cao vai trò khách quan của từng khu vực, chủ thể. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế (vốn đang có rất ít kết nối với nhau), trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc. Nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chiều sâu, cả về quy mô và chất lượng, trở thành lực lượng trọng yếu phát triển kinh tế đất nước.
Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội để kịp thời đón nhận phát triển các phương thức, mô hình sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain…). Để thực hiện được các mục đích trên, cần phải xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm tạo động lực đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ mới, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng phù hợp, có hiệu quả cao vào sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; tạo động lực cốt lõi cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, phát triển xanh, bền vững.
Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu, trong đó có thể chế đất đai, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực cho phát triển. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh việc cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro… để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Song song với việc đổi mới, hoàn thiện thể chế chính trị và thể chế kinh tế, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển xã hội; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; đồng thời tiếp tục hoàn thiện thể chế hội nhập quốc tế để đưa quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả hơn trong tất cả các lĩnh vực.
* * *
Xây dựng thể chế phát triển có chất lượng và thực thi hiệu quả đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và cơ chế, chính sách để nâng cao năng lực của tất cả các chủ thể, đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu (như năng lực ban hành thể chế, lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện thể chế, năng lực thực thi thể chế…). Phải chế định các cơ chế và thiết chế thực thi thể chế nghiêm túc, "nói đi đôi với làm", "thượng tôn pháp luật". Sự đồng bộ giữa ban hành và thực thi thể chế đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của tất các chủ thể, từ người lao động đến đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Có thể nói, chất lượng của thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế của tất cả các chủ thể là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới./.
*Lược trích từ bài viết "Một số vấn đề chủ yếu về xây dựng thể chế phát triển đất nước nhanh - bền vững trong giai đoạn mới".