Trong yên bình, nhớ về một thời khói lửa
Chẳng hiểu sao, kỷ niệm về làng quê một thời của tôi, luôn cứ bị chen vào cả cái bóng đen khổng lồ của chiến tranh. Chiến tranh in vào ký ức tôi còn bởi hình ảnh từng đoàn quân cứ nườm nượp đến rồi lại đi khỏi làng tôi mà không bao giờ thấy ai quay lại…
Chẳng hiểu sao, kỷ niệm về làng quê một thời của tôi, luôn cứ bị chen vào cả cái bóng đen khổng lồ của chiến tranh.
Đó là những năm tháng chúng tôi luôn nơm nớp sợ bom đạn Mỹ. Nỗi sợ này được phụ hoạ thêm bởi những lời cầu khấn của bà nội và mẹ tôi. Dù là ban ngày hay ban đêm, hễ nghe tiếng máy bay rú rít, mẹ liền xách chúng tôi chạy thục mạng rồi gần như quẳng từng đứa một xuống hầm, được làm bằng những thân cây tre đóng chụm đầu vào nhau, bên trên phủ đất, gọi là hầm chữ A.
Quê tôi nằm ở vành đai bảo vệ Hà Nội, nên bốn bề đều có các đơn vị phòng không, gồm tên lửa và pháo cao xạ. Máy bay Mỹ thường bay từ phía Nam ra, hàng đàn, đủ loại. Chúng tôi có thể nhìn lên trời hoặc nghe âm thanh để biết đâu là Thần Sấm, Con Ma, đâu là Cổ Ngỗng, cũng như đặc tính tác chiến của từng loại. Ví dụ nếu là máy bay tiêm kích F4, hình giống cái vỉ ruồi, thì thế nào cũng có bắn tên lửa từ xa xuống các mục tiêu. Còn loại Cổ Ngỗng (AD6), bay chậm, thì mỗi khi cắt bom phải xuống rất thấp.
Chính mắt tôi đã thấy bom rơi thẳng xuống chỗ mình đứng từ một chiếc Cổ Ngỗng bay thấp. Nhưng khi bom nổ lộng óc thì hóa ra lại cách đó hàng cây số. Sợ nhất là nghe tiếng Thần Sấm (F105) và Cánh cụp cánh xoè (F111). Hai loại này bay tầm thấp, tốc độ cao, hình thù quái quỷ. Vì thế khi nghe tiếng gầm rú xé màng nhĩ, thì nó đã ở rất xa rồi. Thỉnh thoảng là tiếng ù ù của tên lửa bắn lên từ làng Mai, cách làng tôi chừng hơn 2km. Chúng tôi vội cúi đầu xuống thấp, hai bàn tay ấp lên tai. Những đứa bé thì bà nội và mẹ sẽ làm việc đó. Bởi vì thể nào cũng sẽ có tiếng nổ đinh tai nhức óc ngay trên đầu. Một tiếng nổ như vậy đã từng làm tụt toàn bộ mái ngói nhà tôi và những nhà xung quanh. Ban ngày thì còn đỡ, vì có cảm giác nhìn thấy nhau. Ngoại trừ mùi đất ẩm ướt, gây gây và thỉnh thoảng có con rắn nào đó thò đuôi ra từ nóc, còn lại nhiều khi chính là dịp để chúng tôi tụ tập chơi, cười nắc nẻ rồi ngủ luôn dưới hầm. Nhưng ban đêm thì mỗi lần chạy máy bay là một cơn ác mộng thực sự.
Phần lớn chúng tôi chỉ thức khi mình đã bị bà hay mẹ xốc dậy, kéo lê lệt xệt trên đất cho đến khi quẳng xuống hầm hoặc hố tăngxê. Gặp hôm trời mưa, tăng xê ngập nước, chúng tôi ướt như chuột nhưng không được nhúc nhích, kể cả khi có con rắn nước nào đó trườn qua người. Ếch nhái cứ việc nhảy lõm bõm xung quanh. Trên đầu lửa cháy sáng rực quả đạn pháo hoặc tên lửa. Bà và mẹ, trăm lần như một, vừa dúi đầu chúng tôi vào lòng để che chở, vừa lầm bầm khấn vái. Tiếng khấn vái to nhỏ tuỳ theo tiếng nổ và tiếng máy bay. Nếu cảm thấy ác liệt quá thì tiếng khấn vái to và dồn dập, như van nài và chúng tôi dễ dàng nghe được.
“Nam mô a di đà Phật, xin ông mang bom đi nơi khác, đừng để rơi lên đầu chúng con”. Cũng có hôm, lời cầu xin trở thành những câu chửi chua ngoa: “Có cái đ. gì mà cứ vòng đi vòng lại xoi mói mãi thế. Đây chả có cái đ. gì đâu, cút đi!”. Bỗng có tiếng nổ lớn, cả bà và mẹ lại cùng rên lên: “Nam mô a di đà Phật”.
Trái với nỗi sợ chết khiếp của chúng tôi, bố tôi hầu như không bao giờ xuống hầm khi có máy bay. Ông không thể hình dung nổi một người như ông mà lại sợ cái lũ giặc trời khốn kiếp. Ban ngày, thì ông lên trận địa phòng không với anh em trên đê, đi lại hiên ngang, ra lệnh đanh thép để những khẩu súng trường tắc bọp mấy phát vuốt đuôi nhưng đầy tinh thần quyết tử, với chiếc máy bay cao tít tắp nào đó đang lao đầu về phía Hà Nội. Chưa bao giờ ông đi lom khom. Chưa bao giờ ông nguỵ trang.
Có lần ông giương khẩu súng thể thao tầm bắn xa khoảng 300 mét, đạn bằng hạt lạc, rê theo một cái máy bay ở độ cao vài ngàn mét, bắn hú hoạ. Ông thách bọn Mỹ có giỏi thì quay lại phóng tên lửa về phía ông. Mỗi khi khói phụt ra từ đuôi máy bay, ông lại chửi: “Dào ồi, có khác gì cái rắm!”. Sau này, khi không có súng thể thao thì ông cũng vẫn ra khỏi nhà, nhưng đứng dưới bụi tre, ngửa cổ quan sát xem bọn Mỹ đánh khu vực nào để thông báo cho những người dưới hầm. Mỗi khi có tên lửa bắn lên, ông lại cổ vũ bằng cách chỉ hướng để tên lửa tìm mục tiêu: “Chúng nó đang bay về phía Hà Nội. Mấy cái quay lại rồi”. Ban đêm, mặc cho máy bay gầm rú, nhiều hôm để mặc bà và mẹ đưa chúng tôi xuống hầm, ông vẫn ngủ yên trên giường. Ông cảm thấy xấu hổ nếu phải chui lủi trước kẻ thù, dù chúng tít trên trời.
Chiến tranh in vào ký ức tôi còn bởi hình ảnh từng đoàn quân cứ nườm nượp đến rồi lại đi khỏi làng tôi mà không bao giờ thấy ai quay lại. Buổi sáng nào đó, khi chúng tôi tỉnh dậy, đã thấy đường làng ngõ xóm ngập mầu áo bộ đội, súng ống, xe pháo, cùng vô số thứ quân trang, quân dụng. Họ dựng lán trại dã chiến, chia nhau vào ở trong nhà dân, mùi hành mỡ thơm lừng.
Ngoài luyện tập, ngày ngày họ chỉ học cách nguỵ trang, học chính trị, sơn đen đèn ô tô… rồi sau từ một đến hai tháng, họ lại ra đi, cũng luôn luôn vào ban đêm. Trước ngày đoàn quân “biến mất” vài hôm, làng tôi như có hội. Những người như bố tôi thì khỏi phải nói, họp hành suốt ngày. Những người như mẹ, cô, chị tôi… tất bật lo toan, cười nói rộn ràng. Chúng tôi được ăn những thứ chỉ dành cho bộ đội. Chúng tôi được học phòng gian bảo mật, với khẩu hiệu ba không: “Không biết, không thấy, không nói”. Ngày đó cuộc sống nghèo nhưng đầy ắp tình nghĩa. Những người ra đi và những người ở lại luôn bịn rịn mỗi khi chia tay nhau. Suốt ngần ấy năm, có lẽ phải hàng vạn người lính đã ghé qua làng tôi trước khi ra trận, tôi chưa hề gặp lại bất cứ ai…
Ký ức về chiến tranh còn là hình ảnh và cuộc đời cô út của tôi. Cô đang làm ở phòng lương thực huyện, thì bố tôi động viên cô vào bộ đội. Cô làm y tá, vào ra Trường Sơn ba lần, tham dự trận Khe Sanh, trận Tổng tiến công năm 1968. Những lá thư cô gửi về, phải sau mấy tháng mới đến tay bố tôi và ông thường đọc bí mật. Có lẽ vì ông không bao giờ tin em gái mình lại còn có thể sống sót trở về. Tuy thế ông luôn giục chúng tôi viết thư cho cô. Một lần tôi đọc trộm thư của cô. Cô kể về trại quân y dã chiến. Xung quanh cô la liệt thương binh. Rừng trơ trụi lá vì thuốc hoá học. Trong đêm cô phải xuống suối cách đó khá xa để lấy nước và bị con lợn lòi đuổi theo, xuýt nữa thì nó ngoạm được vào chân cô. Cuối thư, cô viết cho bố tôi: “Anh ạ, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng. Nhưng cứ tình cảnh này thì chắc là em sẽ vĩnh biệt mẹ, anh chị và các cháu mất”.
Sau này, khi cô may mắn an toàn trở về, tôi nài cô kể chuyện chiến tranh, thì cô chỉ bảo: “Cô cũng không muốn nhớ lại nữa, kinh khủng lắm”.
Có lẽ vì không chịu nổi sự ám ảnh quá tàn khốc, nên sau khi về hưu, cô tôi chăm chỉ làm nghề y cứu người, thuộc rất nhiều kinh Phật, ngày nào cũng tụng niệm và không bao giờ tranh giành với ai.