
Cải cách thể chế cho khu vực kinh tế tư nhân: Cách nghĩ mới, táo bạo thì cách làm cũng phải đổi mới tương xứng
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, xác lập một bước ngoặt về tư duy phát triển, khi lần đầu tiên coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia và cải cách thể chế là điều kiện tiên quyết để khu vực này phát triển thực chất. Trên cơ sở đó, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 198/2025/QH15 nhằm cụ thể hóa một số cơ chế, chính sách đặc thù; còn Chính phủ ban hành Chương trình hành động tại Nghị quyết số 138/NQ-CP, Nghị quyết số 39/NQ-CP triển khai Nghị quyết 198. Trong bối cảnh đó, khu vực kinh tế tư nhân đứng trước cơ hội khơi thông toàn diện nguồn lực và động lực phát triển.
Nghị quyết 68-NQ/TW (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân là mong đợi, kỳ vọng của khu vực kinh tế tư nhân và tất cả các bên liên quan. Nghị quyết xác định rõ: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững. Đây là sự ghi nhận xứng đáng, đem lại niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp.
Trước hết, Nghị quyết 68 đã đánh giá đúng thực trạng, nhất là những rào cản mà khu vực kinh tế tư nhân đang phải đối mặt và đưa ra hệ thống giải pháp khá đồng bộ, toàn diện. Trong đó, có những giải pháp đủ mạnh để giải quyết hai vấn đề cốt lõi của khu vực tư nhân, đó là doanh nghiệp tư nhân “không lớn được” và “không muốn lớn”.
Theo đó, Nghị quyết bắt đầu từ việc tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế - nguyên nhân đầu tiên và căn bản nhất hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Sau đó, Nghị quyết đưa ra loạt giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể tiếp cận công bằng, hợp lý và với chi phí chấp nhận được các yếu tố đầu vào quan trọng như vốn, đất đai, lao động chất lượng cao và khoa học - công nghệ.
Đặc biệt, Nghị quyết 68 nói rất rõ và đưa ra các biện pháp rất quyết liệt về việc không hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự; mở ra cơ hội để doanh nhân sau những vấp váp có thể làm lại, tiếp tục cống hiến cho xã hội. Cùng với đó, là yêu cầu phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, theo nguyên tắc mỗi năm chỉ thanh tra một lần, trừ các trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng. Đây là các giải pháp để xử lý tình trạng doanh nghiệp “không muốn lớn”, vì quy mô càng lớn thì rủi ro pháp lý càng nhiều.
Một điểm mới khác nữa, là Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc phân biệt rõ giữa trách nhiệm pháp lý của pháp nhân và cá nhân. Việc niêm phong, kê biên, phong tỏa tài sản phải đúng thẩm quyền, trình tự, phạm vi pháp luật và tương xứng với thiệt hại dự kiến, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tách bạch tài sản hợp pháp với tài sản liên quan đến vi phạm; phân định rõ giữa tài sản của doanh nghiệp và cá nhân người quản lý. Các biện pháp bảo đảm tài sản phải được áp dụng hợp lý, không gây gián đoạn hoạt động sản xuất - kinh doanh và có sự thống nhất giữa các cơ quan tố tụng. Tựu trung lại, việc xử lý đảm bảo tinh thần thu hẹp phạm vi xử lý, tập trung vào hành vi và tài sản liên quan đến vi phạm, tránh gây thiệt hại lan rộng và không cần thiết cho doanh nghiệp và người lao động.
Với những điểm mới trên, có thể nói, Nghị quyết lần này đã thực sự đi đúng vào những vấn đề mà doanh nghiệp tư nhân đang đối mặt trong quá trình phát triển.
Nghị quyết cũng đặt ra các mục tiêu rất cao. Như đến năm 2030, Việt Nam phải có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân cần đạt từ 10% đến 12% mỗi năm.
Để làm được điều đó, nhiệm vụ cải cách thể chế, đặc biệt là tháo gỡ điểm nghẽn, phải được triển khai quyết liệt ngay từ năm 2025. Cụ thể, trong năm nay, phải hoàn thành việc rà soát và bãi bỏ được ít nhất 30% các quy định, điều kiện kinh doanh không hợp lý, cũng như giảm 30% chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Đến năm 2028, phải đạt được bước chuyển rõ rệt về môi trường kinh doanh, để Việt Nam vươn lên nằm trong nhóm ba nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh.
Đây là các mục tiêu đầy áp lực đối với các cơ quan thực thi. Bởi hiện tại chúng ta mới có khoảng 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Như vậy, để đạt được mục tiêu, mỗi năm cần tăng thêm 200.000 doanh nghiệp đang hoạt động, sau khi trừ đi số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Kết quả đó không thể đạt được một cách tự nhiên, mà phụ thuộc hoàn toàn vào việc cải thiện toàn bộ môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp gia nhập thị trường và hoạt động kinh doanh, để cho số doanh nghiệp rút khỏi thị trường ngày càng ít đi, số doanh nghiệp gia nhập thị trường ngày càng tăng lên. Vấn đề then chốt không nằm ở giải pháp mà ở cách thức tổ chức thực hiện. Liệu việc thực thi có được tiến hành một cách đủ cụ thể, đủ quyết liệt, đủ nhanh chóng và với cường độ đủ mạnh mẽ hay không? Đây mới là yếu tố quyết định thành công của cải cách, để thể chế thực sự trở thành “đột phá của đột phá”.
Ngày 17/5, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 198/2025/QH15 nhằm cụ thể hóa một số cơ chế, chính sách đặc thù. Khi đã xác lập những định hướng và cam kết cụ thể, thì việc thực hiện càng cần phải nghiêm túc và tương xứng, thực chất. Bởi chúng ta từng có nhiều nghị quyết rất hay, rất đúng nhưng thực hiện chưa đến nơi đến chốn, cho nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp chưa có sự thay đổi đáng kể.
Điều đáng lo ngại là cách thức triển khai hiện nay vẫn mang tính chất truyền thống. Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành động, sau đó các bộ, ngành và địa phương cũng lần lượt xây dựng kế hoạch riêng. Tuy nhiên có thể phải mất tới nhiều tháng mới hoàn tất. Chưa kể, nguy cơ các kế hoạch hành động được soạn thảo có thể chưa thực sự phù hợp với tinh thần và yêu cầu cải cách mà Nghị quyết đề ra.
Vì vậy, bên cạnh kế hoạch hành động đó, tôi kiến nghị Chính phủ nên thành lập một nhóm công tác đặc biệt, đặt dưới sự chủ trì và lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Thành phần của nhóm này nên bao gồm các chuyên gia độc lập, đại diện doanh nghiệp và một số thành viên đến từ các bộ, ngành, trong đó đặc biệt cần có sự tham gia của Bộ Tư pháp.
Chức năng của nhóm công tác này là rà soát, đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật hiện hành, từ đó kiến nghị bãi bỏ các luật không cần thiết, không phù hợp, các quy định không còn phù hợp, các điều khoản luật đã lạc hậu hoặc mâu thuẫn với nguyên tắc phát triển thị trường. Đặc biệt, cần tập trung loại bỏ các thủ tục hành chính mang tính “xin - cho”, vốn là biểu hiện rõ nét nhất của một cơ chế quản lý còn dựa trên tư duy “không quản được thì cấm, quản được đến đâu thì cho làm đến đó”. Đó thực sự là rào cản lớn đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân cho đến nay.
Song song với đó, cần xây dựng mới các văn bản pháp luật nhằm tạo dựng khung khổ thể chế hiện đại, hỗ trợ hiệu quả cho khu vực kinh tế tư nhân. Ví dụ như xây dựng khung khổ pháp lý đối với các quỹ đầu tư, các công ty đầu tư và các thiết chế huy động, cung cấp vốn trung và dài hạn cho khu vực kinh tế tư nhân. Đây là những công cụ tài chính thiết yếu để doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn lực, phát triển quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các quy định pháp lý cho phép chính quyền địa phương chủ động quy hoạch, tích tụ và phát triển quỹ đất, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là trong các khu vực dành riêng cho doanh nghiệp tư nhân.
Những nhiệm vụ nêu trên không thể thực hiện hiệu quả nếu tiếp tục giao về cho các bộ, ngành theo cách tiếp cận phân tán truyền thống. Để triển khai một cách nhanh chóng, có hệ thống và không bị chi phối bởi tư duy hoặc lợi ích cục bộ, thì nên giao cho nhóm công tác đặc biệt, hoạt động liên tục trong 5 năm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ.
Chỉ với một cấu trúc điều phối mang tính cải cách như vậy, chúng ta mới có thể thực hiện đầy đủ và quyết liệt các quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết 68 và các cơ chế, chính sách đặc thù đặt ra tại Nghị quyết 198. Việc cải cách thể chế cho khu vực kinh tế tư nhân đang có cách nghĩ mới, táo bạo và phù hợp với yêu cầu phát triển. Nhưng để thực sự đi vào cuộc sống, cách làm cũng phải đổi mới tương xứng, không thể tiếp tục dựa hoàn toàn vào mô hình hành chính truyền thống, vốn vận hành phân tán, trì trệ và thiếu liên thông. Có vậy, chúng ta mới sớm đạt các mục tiêu đề ra. Trong đó, có mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động và phải đạt được một cách thực chất chứ không phải số liệu trên giấy tờ.
Thứ hai, việc thực hiện phải có quyết tâm rất cao và cơ chế kiểm soát hiệu quả. Không thể chỉ trông chờ vào việc các bộ ngành tự rà soát, tự sửa đổi. Chúng ta cần có một cơ chế giám sát độc lập, có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, giới chuyên gia, báo chí. Cần có báo cáo định kỳ, đánh giá kết quả cụ thể theo từng chỉ tiêu đã nêu, chứ không phải là những tổng hợp mang tính hình thức. Và quan trọng hơn, phải có người chịu trách nhiệm chính trị nếu không hoàn thành nhiệm vụ chứ không thể để mọi việc “chung chung” như lâu nay.
Cũng cần thay đổi cách lựa chọn điểm ưu tiên. Hãy bắt đầu từ những điểm nghẽn mà doanh nghiệp phản ánh nhiều nhất, rõ nhất như thủ tục đầu tư, thủ tục hoàn thuế, quy định phòng cháy chữa cháy, điều kiện xây dựng… Những việc này hoàn toàn có thể giải quyết được ngay, nếu có sự chỉ đạo dứt khoát từ cấp cao nhất.
Cuối cùng, điều tôi kỳ vọng nhất là Nghị quyết 68 không chỉ mang lại hành lang pháp lý mới, mà còn tạo ra tâm lý an toàn, vững vàng cho người làm kinh doanh chân chính. Khi doanh nhân cảm thấy yên tâm đầu tư dài hạn, thì họ mới dám đổi mới, dám lớn mạnh. Còn nếu rủi ro pháp lý vẫn rình rập, thì tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo sẽ khó cất cánh và nền kinh tế cũng sẽ tiếp tục chật vật với vòng luẩn quẩn “doanh nghiệp nhỏ mãi không lớn”.
Dựa trên tinh thần của Nghị quyết 68, Nghị quyết 198 và Chương trình, Kế hoạch hành động của Chính phủ tại Nghị quyết 138, Nghị quyết 139, với những đột phá tư duy đã được xác lập và các kế hoạch hành động bước đầu đã triển khai, tôi cho rằng để chuyển hoá thực chất các mục tiêu cải cách thành kết quả cụ thể, nhất quán, cần tập trung vào một số vấn đề sau đây:
(1) Đề xuất bãi bỏ điều kiện kinh doanh cụ thể
Sau gần một thập kỷ sửa đổi liên tục, hệ thống pháp luật về đầu tư - kinh doanh vẫn chồng chất rào cản “giấy phép con”. Hiện có hàng nghìn ngành, nghề kinh doanh kèm hàng chục nghìn điều kiện tương ứng; nhiều điều kiện mô tả chung chung, khó đo lường, không phản ánh rủi ro thật. Tình trạng này làm tăng chi phí tuân thủ, kìm hãm doanh nghiệp nhỏ và vừa - lực lượng chiếm hơn 97 % tổng số doanh nghiệp. Để khơi thông nguồn lực tư nhân và phù hợp tinh thần Hiến pháp 2013 - “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, cần một gói giải pháp cắt giảm điều kiện kinh doanh quy mô lớn, có mục tiêu định lượng và cơ chế giám sát độc lập.
Thứ nhất, cắt giảm tối thiểu 2/3 số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện: Phụ lục IV, Luật Đầu tư 2020 và các luật chuyên ngành đang liệt kê trên 240 ngành, nghề có điều kiện. Đề nghị rà soát đa tầng, chỉ giữ lại tối đa 1/3 số mục thực sự liên quan đến quốc phòng, an ninh, sức khỏe, môi trường hoặc trật tự công cộng; phần còn lại bãi bỏ đồng loạt. Cách tiếp cận này phù hợp với thông lệ quốc tế, như các nguyên tắc của Tổ chức Hợp tác và phát triển Kinh tế (OECD) về giảm rào cản gia nhập thị trường và thúc đẩy cạnh tranh.
Thứ hai, lượng hóa và xóa bỏ điều kiện không lượng hoá được: Các mục tiêu cải cách như giảm 30% điều kiện kinh doanh, 30% chi phí tuân thủ… nếu không lượng hóa được các điều kiện thì sẽ rất khó đảm bảo hiệu quả. Phải xác định hiện nay có bao nhiêu thủ tục, chi phí nằm ở đâu, thuộc Bộ nào. Phải lượng hóa và đo lường cụ thể thì mới giám sát và điều hành được.
Những mệnh đề kiểu chung chung “phù hợp quy hoạch”, “đáp ứng nhu cầu thị trường”... phải được hủy bỏ vì không gắn với thông số kỹ thuật cụ thể, tạo khoảng trống tùy nghi cho cơ quan cấp phép. Chỉ giữ điều kiện kỹ thuật có tiêu chuẩn đo được.
Thứ ba, chuyển sang hậu kiểm theo rủi ro: Đối với ngành nghề còn duy trì điều kiện, chuyển triệt để sang mô hình hậu kiểm. Doanh nghiệp tự khai, nộp chứng chỉ hợp chuẩn/hợp quy; cơ quan quản lý lấy mẫu ngẫu nhiên dựa trên phân loại rủi ro, đối chiếu với chuẩn mực quốc tế. Cách làm này giảm thời gian cấp phép, nhưng vẫn bảo đảm chất lượng thông qua việc giám sát sau khi sản phẩm - dịch vụ ra thị trường.
Thứ tư, số hóa và minh bạch hóa toàn bộ quy trình: Xây dựng cổng dữ liệu mở chứa danh mục ngành, nghề, điều kiện còn hiệu lực và mẫu hồ sơ điện tử thống nhất. Mọi sửa đổi, bổ sung điều kiện phải công bố trên cổng tối thiểu 60 ngày trước khi áp dụng. Dữ liệu truy vết này ngăn chặn “cửa phụ” phát sinh, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tự tra cứu thay vì phụ thuộc dịch vụ giấy tờ.
Thứ năm, giao chỉ tiêu lượng hóa và gắn trách nhiệm: Chính phủ cần ban hành Nghị quyết giao rõ KPI cho từng Bộ trưởng, từng Chủ tịch UBND tỉnh. Kết quả được cập nhật hàng quý; bộ, ngành không đạt mục tiêu phải giải trình trước Chính phủ. Hệ thống đánh giá công vụ gắn trực tiếp với tiến độ cắt giảm các rào cản, tránh tình trạng “cắt chỗ này, mọc chỗ khác”.
(2) Bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư
Thủ tục “chấp thuận chủ trương đầu tư” hiện nay không còn phù hợp với môi trường kinh doanh hiện đại và cơ chế thị trường. Thực chất, đây là một hình thức can thiệp hành chính sâu vào quyền tự do đầu tư, khi cơ quan nhà nước trực tiếp quyết định các yếu tố cốt lõi của dự án như mục tiêu, quy mô, địa điểm, tiến độ, thời hạn, nhà đầu tư và hình thức lựa chọn nhà đầu tư.
Cách tiếp cận này đi ngược lại nguyên tắc thị trường - nhà đầu tư mới là chủ thể quyết định “sản xuất cái gì, ở đâu, như thế nào và với quy mô ra sao” chứ không phải Nhà nước. Việc duy trì thủ tục này làm tăng chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp, hạn chế đổi mới sáng tạo và triệt tiêu động lực đầu tư, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và mới thành lập.
Thực tiễn cho thấy, đây là thủ tục thường kéo dài, phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp phải nhiều lần bổ sung, điều chỉnh hồ sơ, nhất là về quy mô và tiến độ thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp, nếu có thay đổi so với chủ trương đã được phê duyệt, doanh nghiệp lại phải xin điều chỉnh, phát sinh rủi ro pháp lý đáng kể.
Đáng chú ý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 33 Luật Đầu tư 2020, tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư gồm ít nhất một trong các tài liệu sau: Báo cáo tài chính 2 năm gần nhất của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư; tài liệu khác chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù doanh nghiệp đã đáp ứng một hoặc một số trong các tài liệu đó rồi thì nhiều địa phương vẫn yêu cầu nộp báo cáo tài chính hai năm gần nhất. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp mới thành lập.
Về mặt chức năng, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư không thay thế được đánh giá tác động môi trường, không thay thế được giấy phép xây dựng, không thay thế được các quy trình về đất đai và kiểm soát chất lượng công trình. Nói cách khác, nó không có vai trò độc lập về quản lý, nhưng lại gây chồng lấn, phức tạp và kéo dài quy trình đầu tư.
Tóm lại, đây là một thủ tục hành chính không có mục tiêu quản lý rõ ràng, không cần thiết trong bối cảnh hiện nay, và cần được bãi bỏ dứt điểm đối với các dự án đầu tư trong nước không sử dụng ngân sách hoặc không hưởng ưu đãi đặc biệt.
(3) Đổi mới cách thức quản lý và tiếp cận đất đai để hỗ trợ doanh nghiệp trong nước
Theo Luật Đất đai hiện hành, Nhà nước chủ yếu giao đất, cho thuê đất thông qua cơ chế đấu giá hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, ngoại trừ một số dự án đặc biệt quan trọng của quốc gia. Cơ chế này đã loại bỏ hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa ra khỏi các phiên đấu giá, đấu thầu đất đai. Bên cạnh đó, giá đất được xác định theo giá thị trường, thường bị đẩy lên cao do yếu tố đầu cơ nên vượt quá khả năng chi trả của đa số doanh nghiệp. Chi phí đầu tư cũng bị đẩy lên cao, làm thui chột động lực đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, các khu công nghiệp hiện hữu chủ yếu ưu tiên phục vụ đầu tư nước ngoài hơn là doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp nội vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất.
Vì vậy, tôi cho rằng, cần xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai theo hướng áp dụng linh hoạt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp với quá trình phát triển cụ thể của từng ngành, địa phương và quốc gia. Đồng thời xây dựng khung pháp lý rõ ràng, minh bạch cho hoạt động thị trường quyền sử dụng đất, đặc biệt là thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, nhằm tạo sự linh hoạt trong việc tích tụ, chuyển đổi và sử dụng đất hiệu quả hơn.
Mặt khác, giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các nhà đầu tư uy tín, giàu kinh nghiệm phát triển hạ tầng công nghiệp, để họ xây dựng các khu công nghiệp dành riêng cho doanh nghiệp trong nước. Qua đó, tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận mặt bằng sản xuất công nghiệp với chi phí hợp lý. Cách này sẽ góp phần xây dựng, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.
Cần xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai theo hướng áp dụng linh hoạt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp với quá trình phát triển cụ thể của từng ngành, địa phương và quốc gia. (Ảnh minh hoạ)
(4) Một số chính sách cụ thể dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp
Cần có các chính sách đơn giản hoá trong hoạt động kế toán, miễn thuế thu nhập trong những năm đầu khởi nghiệp, giảm thuế suất cho hộ kinh doanh chuyển đổi, và hỗ trợ các dịch vụ kế toán - pháp lý cơ bản. Đây là cách thiết thực để mở rộng số lượng doanh nghiệp chính thức, giảm khu vực phi chính thức, và khuyến khích kinh doanh có trách nhiệm.
Miễn, giảm thuế trong 1 - 2 năm đầu khi các cơ sở chuyển đổi thành doanh nghiệp, đơn giản hóa tất cả thủ tục về thuế, hỗ trợ họ khai báo thuế theo hình thức kinh tế số, dễ dàng tiếp cận tín dụng, ngân hàng. Đặc biệt, việc sửa đổi bổ sung một số nội dung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nên xem xét giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ từ 20% xuống 17%.
Hình thành các quỹ đầu tư tư nhân, tổ chức thuê - mua tài chính, và có chính sách ưu đãi về thuế để doanh nghiệp tự lập quỹ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài ra, cần có hệ thống viện nghiên cứu tư nhân được ưu đãi thực chất, tạo cầu nối chuyển giao công nghệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
(5) Áp dụng thử nghiệm chính sách tại các địa phương đi trước
Chúng ta không thể chờ cải cách toàn hệ thống mới bắt đầu đổi mới. Cần chọn một số địa phương có cam kết và năng lực thực thi tốt để thí điểm bãi bỏ các quy định gây cản trở, xây dựng mô hình thể chế mới linh hoạt. Nếu thành công, có thể nhân rộng toàn quốc. Đây là cách làm thực tiễn, khả thi và phù hợp với giai đoạn hiện nay.
(6) Sửa đổi hoặc bãi bỏ các luật không còn phù hợp
Quốc hội cần sẵn sàng hành động tiếp theo sau Nghị quyết 198, đó là xem xét, sửa đổi hoặc bãi bỏ các luật không còn phù hợp. Những đổi mới về cơ chế sẽ không thể vận hành hiệu quả nếu vẫn bị giới hạn bởi các quy định có tính pháp lý cao hơn.
Không một nền kinh tế nào đạt tăng trưởng cao, bền vững mà không có một khu vực tư nhân năng động, được trao quyền thực sự và bình đẳng. (Ảnh minh hoạ)
***
Nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã có những bước đi đột phá trong cải cách thể chế để thúc đẩy kinh tế tư nhân. Từ những năm 1960, Hàn Quốc đã xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp tư nhân làm nòng cốt, hình thành các tập đoàn Chaebol như Samsung, Hyundai thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, đất đai giá thấp, hỗ trợ hoạt động R&D và mở cửa thị trường xuất khẩu.
Singapore từ lâu đã tập trung xây dựng hệ thống pháp lý cực kỳ minh bạch, đơn giản hóa tối đa thủ tục đầu tư - kinh doanh, đồng thời bảo vệ quyền tài sản và hợp đồng chặt chẽ bằng một hệ thống tư pháp chuyên biệt cho tranh chấp kinh tế.
Còn Trung Quốc, từ năm 1999, Hiến pháp nước này đã chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Họ liên tục cải cách thể chế theo hướng ưu tiên tốc độ xử lý thủ tục, mở rộng quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp, khuyến khích doanh nhân phát triển các tập đoàn dân doanh quy mô lớn.
Những bài học đó cho thấy, không một nền kinh tế nào đạt tăng trưởng cao, bền vững mà không có một khu vực tư nhân năng động, được trao quyền thực sự và bình đẳng.
Tư duy mới về phát triển kinh tế tư nhân đã được xác lập, nhưng thành công hay không phụ thuộc vào cách thực thi. Chỉ khi hành động đủ nhanh, đủ mạnh và đủ thực chất, thì kỳ vọng về một môi trường kinh doanh minh bạch, năng động mới trở thành hiện thực, tạo nền tảng để khu vực tư nhân thực sự cất cánh, đóng góp chủ chốt cho tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước. Khi thể chế thực sự đổi mới, không chỉ có “đại bàng”, mà cả “chim sẻ” cũng có thể bay xa.
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!