Ra đời và hoàn thiện dưới Gia Long và định hình hoàn thiện dưới Minh Mạng
Cửa Hiển Nhơn được xây dựng vào năm 1805, cùng thời điểm triều Gia Long bắt đầu kiến tạo Hoàng thành Huế. Đây là một trong bốn cửa chính của Hoàng thành, nằm trên trục Đông - đối xứng với cửa Chương Đức (phía Tây), Ngọ Môn (phía Nam) và Hòa Bình (phía Bắc). Trước kia cánh cửa này dành cho quan lại, nam nhân ra vào Hoàng Thành.

Cửa Hiển Nhơn sở hữu kiến trúc độc đáo, đồ sộ. Ảnh: Huế Ngày Nay
Đến triều Minh Mạng (1820-1840), công trình tiếp tục được tu bổ và trang trí hoàn thiện.

Cửa Hiển Nhơn sở hữu kiến trúc vô cùng ấn tượng. Ảnh: Huế Ngày Nay
Chính giai đoạn này đã tạo nên diện mạo nghệ thuật đặc sắc của Hiển Nhơn, đặc biệt là phần hoành phi - phù điêu - họa tiết khảm sành sứ.
Dù phần lớn các cửa thành của Hoàng thành Huế – trong đó có Cửa Hiển Nhơn và Cửa Chương Đức đều được xây dựng từ thời Gia Long và hoàn thiện dưới triều Minh Mạng, giai đoạn vua Khải Định (1916–1925) vẫn để lại những dấu ấn rõ rệt trong mỹ thuật trang trí cung đình. Đây là thời kỳ nghệ thuật khảm sành sứ, pháp lam và trang trí Á - Âu đạt đến độ tinh xảo cao, được bổ sung trên nhiều hạng mục kiến trúc.
Nhờ đó, một số mảng khảm, phù điêu và chi tiết trang trí trên các cổng lớn của Hoàng thành được hoàn thiện hoặc gia cố theo phong cách đặc trưng của triều Khải Định, góp phần tạo nên diện mạo phong phú và tinh mỹ của hệ thống cửa thành ngày nay.
Cửa Hiển Nhơn được xem là một trong những công trình tinh mỹ nhất còn tồn tại đến ngày nay. Không chỉ nổi bật bởi vị trí trấn giữ phía Đông Hoàng thành, Hiển Nhơn còn là kiệt tác của nghệ thuật khảm sành sứ - kỹ thuật đặc trưng của kiến trúc cung đình triều Nguyễn.

Các nghệ nhân đã sử dụng sứ, gố, lưu ly từ nhiều nguồn để tạo nên kiến trúc cho cánh cổng. Ảnh: Huế Ngày Nay
Theo ghi chép triều Nguyễn, để làm nên cánh cổng này, các nghệ nhân đã sử dụng mảnh sứ, gốm, lưu ly từ nhiều nguồn: Đồ sứ men lam vỡ, gốm trang trí, gạch men nhập từ Trung Hoa cũng như các vật liệu trong nước.
Mặc dù vậy, hiện không có số liệu chính thức nào công bố số lượng mảnh sành, sứ hay vật liệu được sử dụng.
Kết hợp quy chuẩn cung đình và nghệ thuật trang trí độc đáo
Cửa Hiển Nhơn được xây dựng theo mô thức tam quan với một cửa chính ở giữa dành cho vua và đoàn nghi trượng; hai cửa phụ hai bên dành cho quan lại và binh lính.
Toàn bộ công trình được dựng bằng gạch vồ đặc trưng của kinh thành Huế, mái lợp ngói lưu ly vàng – xanh, bên trên trang trí các linh vật như lưỡng long chầu nhật, mai điểu, hoa lá cách điệu.

Bên trên cổng trang trí các linh vật như lưỡng long chầu nhật, mai điểu, hoa lá cách điệu. Ảnh: Huế Ngày Nay
Một trong những điểm nhấn ấn tượng của cửa Nhơn Hiển chính là kỹ thuật khảm sành sứ (pháp lam - pháp khảm) trên các mảng tường và phù điêu. Các mảnh gốm - sứ được cắt nhỏ, ghép tinh vi tạo thành điển tích xưa: Tứ long (Long - Lân - Quy - Phụng); các di tích văn học và lịch sử Trung Hoa; họa tiết hoa văn dân gian.

Công trình thể hiện các đường nét tinh xảo. Ảnh: Báo Tri thức và Cuộc sống
Độ sắc nét của các mảnh khảm đã khiến công trình được giới nghiên cứu đánh giá là một trong những cửa ra vào đẹp nhất của Hoàng thành, thậm chí đẹp bậc nhất trong quần thể di sản cung đình Việt Nam.

Các chi tiết trên cánh cổng đều vô cùng sắc nét. Ảnh: Báo Tri thức và Cuộc sống
Sau hơn một thế kỷ chịu tác động của thời gian và chiến tranh, Cửa Hiển Nhơn xuống cấp nặng. Từ năm 2019, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai dự án trùng tu toàn diện: Tiến hành gia cố nền móng; Khôi phục hệ mái và ngói lưu ly; Phục dựng các mảng khảm sành sứ theo nguyên bản; Làm sạch màu sắc, chỉnh trang phù điêu.

Công trình mang đậm dấu ấn cung đình. Ảnh: Báo Tri thức và Cuộc sống
Dự án hoàn thành năm 2021, đưa Cửa Hiển Nhơn trở lại với vẻ đẹp trang nhã, cân đối và sắc nét như thời triều Nguyễn xưa.
Hoàng thành Huế được xây dựng từ 1805, dưới thời Gia Long và hoàn thiện cơ bản dưới triều Minh Mạng. Đây là trung tâm hành chính - chính trị - nghi lễ của triều Nguyễn, gồm ba lớp thành: Kinh Thành - Hoàng Thành - Tử Cấm Thành. Năm 1993, quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới nhờ giá trị lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật đặc biệt.