Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra

Thứ Năm, 16/05/2024 - 06:09

Trong quá trình gần 40 năm đổi mới, chính thức bắt đầu từ năm 1986, ngày nay Việt Nam đã có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế cao chưa từng có. Đó là nền móng vững chắc để cùng với đội ngũ doanh nhân đồng hành cùng đất nước, hướng tới các mục tiêu phát triển đã được đại hội XIII xác định: Năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 là nước phát triển có thu nhập cao. Trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ này, hướng tới khát vọng xây dựng đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Bác Hồ đã nhấn mạnh có vai trò quan trọng của khu vực doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân.

***********

Những thành quả chúng ta đã đạt được trong tiến trình đổi mới là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để vượt qua thách thức bẫy thu nhập trung bình, vươn lên là nước phát triển có mức thu nhập cao, rất cần một sự thay đổi mạnh mẽ.
Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 1.GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái

Hành trình đổi mới

Từ khi bắt đầu đổi mới năm 1986, Việt Nam đã áp dụng mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng dựa vào mở rộng đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động thủ công giá rẻ. Trong quá trình phát triển, từng bước Việt Nam đã đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với cách thức vận hành, với những động lực, cấu trúc mới.

Đó là mô hình tăng trưởng được vận hành bởi cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhưng động lực tăng trưởng vẫn là mở rộng đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ công giá rẻ - những lợi thế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm đã góp phần tạo ra của cải vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, giảm nghèo và rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng/miền và các tầng lớp dân cư.

Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng kinh tế dựa quá nhiều vào đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, quá coi trọng vai trò của khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả, trong khi lại chưa quan tâm đúng mức đến các động lực khác của nền kinh tế, như khoa học - công nghệ, nhu cầu của thị trường trong nước... dẫn đến nợ công cao, bong bóng bất động sản và chứng khoán, nợ xấu, sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng khiến cho dòng vốn khó kiểm soát, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 2.

GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam.

Vì vậy, mô hình tăng trưởng kinh tế chiều rộng được duy trì từ Đổi mới đến năm 2010 đã không còn dư địa phát triển. Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ các nước lớn, diễn biến khó lường của biến đổi khí hậu, xu hướng cơ cấu lại nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới tác động trực tiếp đến Việt Nam, đặt ra yêu cầu phải tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới, vừa đón đầu được xu thế mới, vừa khắc phục được điểm nghẽn trong mô hình tăng trưởng kinh tế cũ.

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đã bắt đầu thực hiện từ 2011 đến nay, trải qua ba giai đoạn kế hoạch 5 năm, với sự chuyển biến khá rõ nét cả về tư duy lý luận, mục tiêu, phương thức vận hành, cũng như cấu trúc nền kinh tế.

Từ Đại hội Đảng XI đến Đại hội XII là bước chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng kinh tế "từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, tính bền vững" sang mô hình tăng trưởng "kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh, bền vững".

Tiếp đến Đại hội XIII, Đảng ta xác định "Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu GVC".

Đây là bước đổi mới tất yếu do: (i) Nền kinh tế của chúng ta phát triển theo chiều rộng đã tới hạn, cần đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu dựa trên nền tảng khoa học công nghệ; (ii) Các nguồn lực tài nguyên như dầu mỏ, than đá cạn kiệt dần, nguồn lao động giá rẻ không còn nữa; (iii) Mô hình tăng trưởng đó dẫn đến ô nhiễm môi trường, cần tìm kiếm phương thức tăng trưởng ít phát thải.

Nhưng để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế cần xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp thông qua quá trình phân bổ lại các nguồn lực (đặc biệt là vốn đầu tư) trên phạm vi quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ nguồn lực, hướng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng đặt ra trong từng thời kỳ.

Xuất phát từ mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa tăng trưởng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1986 - 2010, từ năm 2011, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ các trụ cột của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, bao gồm: (i) Cơ cấu lại 3 trụ cột đầu tư công, DNNN và các tổ chức tín dụng; (ii) Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, khu vực công; (iii) Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; (iv) Hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; (v) Hình thành đồng bộ và phát triển các loại thị trường (thị trường tài chính, thị trường quyền sử dụng đất, thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định rõ là toàn bộ các trụ cột của quá trình cơ cấu lại đã nêu ở trên được tiến hành trên nền tảng số, gắn với chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 3.

Trong quá trình phát triển, từng bước Việt Nam đã đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với cách thức vận hành, với những động lực, cấu trúc mới. Ảnh: Báo Chính phủ.

Sự chuyển mình mạnh mẽ

Với chủ trương đúng đắn nêu tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cho đến nay, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Thể hiện ở tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 6,17%; giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,25%; giai đoạn 2021 - 2023 đạt 5,21%. Quý 4/2023 tăng trưởng đạt 6,72%, thuộc Top 10 nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Tăng trưởng đạt được ở cả ba nhóm ngành, trong đó dịch vụ tăng cao nhất với 6,82%.

Xét ở khía cạnh đầu vào: Mô hình tăng trưởng kinh tế đã dịch chuyển theo chiều sâu khi tỷ trọng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP - là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động) tăng lên trong GDP: Giai đoạn 2011 - 2015 chiếm 33,5% GDP; giai đoạn 2016 - 2020 đóng góp khoảng 45,7% và giai đoạn 2021 - 2023 ước khoảng 35,3 - 46,09% (mục tiêu đến năm 2025 đạt khoảng 45% GDP).

Xét ở khía cạnh cấu trúc nền kinh tế: Cơ cấu kinh tế ngành có bước chuyển dịch đúng hướng trong quá trình CNH để trở thành nước công nghiệp và xu hướng tăng dịch vụ khi tỷ trọng nông lâm thuỷ sản giảm, tỷ trọng công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng. Cơ cấu loại hình kinh tế cũng có bước chuyển dịch hợp lý khi tỷ trọng của khu vực ngoài nhà nước tăng lên, chiếm tỷ trọng cao nhất 50,04% (2021), tương ứng với sự giảm đi của khu vực nhà nước (21,18% năm 2021 so với 22,84% năm 2015), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên (năm 2021: 20,02% so với 17,46% năm 2020).

Xét ở khía cạnh thể chế kinh tế: Thể chế chính sách, nhất là hệ thống luật lệ và các quy chế phân bổ nguồn lực hoàn thiện hơn. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá VND/USD hối đoái giai đoạn 2010 - 2023 liên tục tăng lên, năm 2010 chỉ đạt 1.614 USD/người thì đến năm 2023 đã đạt mức 4.284 USD/người, đứng thứ 6 Đông Nam Á, thứ 25 Châu Á và thứ 45 thế giới, tạo tiền đề để nâng cao trình độ phát triển con người, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.

Tuy nhiên, việc đổi mới mô hình tăng trưởng chưa có nhiều chuyển biến về chất, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học công nghệ khi đóng góp của nhân tố TFP còn chưa cao, năng suất lao động (NSLĐ) còn thấp, môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, rất cần nhìn thẳng vào thực trạng, chỉ ra những tồn tại cần khắc phục để từ đó có chính sách phù hợp cho bước phát triển tiếp theo. Những tồn tại đó là:

(1) NSLĐ của Việt Nam vẫn còn thấp, đóng góp của tăng năng suất vào tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn phụ thuộc nhiều vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ ngành có NSLĐ thấp sang ngành có NSLĐ cao hơn, chứ chưa thực sự dựa vào sự gia tăng năng suất do đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng KHCN, đổi mới sáng tạo.

Nguyên nhân NSLĐ thấp là do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn cao, ứng dụng KHCN trong các doanh nghiệp còn hạn chế. Hơn nữa, kinh tế nước ta chưa có thay đổi đáng kể trong bản chất tăng trưởng của từng ngành; tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào việc mở rộng quy mô của các ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ thấp, vì vậy mục tiêu tăng nhanh giá trị gia tăng của sản phẩm chưa đạt được. Đặc biệt, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò động lực phát triển, dẫn dắt tăng NSLĐ của nền kinh tế nhưng tập trung cao ở những ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu dựa trên nền tảng công nghệ thấp và trung bình. Nhân lực chất lượng cao ở hầu hết các ngành còn yếu, thiếu; khả năng/mức độ liên kết của doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp FDI còn thấp.

(2) Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Hoạt động đổi mới sáng tạo chưa thực sự đa dạng, chưa thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp, nhà khoa học trong các lĩnh vực, sự hỗ trợ của Nhà nước, chính quyền địa phương cho các hoạt động đổi mới sáng tạo chưa tạo được động lực nghiên cứu, đổi mới. Mặt khác, mặc dù đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng kinh tế đã gia tăng trong những năm gần đây, mô hình tăng trưởng kinh tế đã có bước dịch chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu ở một số ngành, lĩnh vực, song mức độ chuyển dịch chậm.

(3) Mức độ chuyển dịch cơ cấu năng lượng hướng đến một nền kinh tế phát thải thấp (net-zero) vào năm 2050 vẫn còn chậm. Hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Các nguồn cung năng lượng trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu, dẫn đến việc Việt Nam phải nhập khẩu ròng năng lượng từ năm 2015, thay vì xuất khẩu ròng năng lượng trước đó. Việc khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng truyền thống trong nước (dầu khí, than, thuỷ điện) cũng đã tiệm cận đến mức giới hạn tiềm năng sẵn có. Nhiều ngành sản xuất, đặc biệt là nhóm công nghiệp nặng đang tiêu tốn nhiều điện, nhưng hiệu quả kinh tế mang lại không lớn.

(4) Tăng trưởng xanh, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng bền vững, xanh, thông minh còn chậm, hiệu quả chưa rõ nét. Mặc dù quan điểm phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được xác định rõ ràng, nhất quán trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, song đến nay, thu hút các nguồn lực vốn, nhân lực và công nghệ cho tăng trưởng xanh và chuyển dịch xanh vẫn còn thấp, tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế xanh, kinh tế số trong GDP còn thấp.

(5) Cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm, hiệu quả chưa rõ nét, thể hiện ở tất cả các trụ cột: Cơ cấu lại đầu tư công, cơ cấu lại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước và tổ chức tín dụng, cơ cấu lại ngân sách nhà nước và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực kinh tế.

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 5.GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái
Việc đổi mới mô hình tăng trưởng chưa có nhiều chuyển biến về chất, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học công nghệ khi đóng góp của nhân tố TFP còn chưa cao, năng suất lao động còn thấp, môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, rất cần nhìn thẳng vào thực trạng, chỉ ra những tồn tại cần khắc phục để từ đó có ch

Tất cả những điều đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, đổi mới sáng tạo, giảm phát thải, xanh và thông minh; nếu không, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình sẽ là rất lớn. Đồng thời, các vấn đề xã hội như già hoá dân số, khoảng cách bất bình đẳng tăng lên giữa các vùng/miền; vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu… cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đặc biệt, bối cảnh hiện nay, nền kinh tế toàn cầu đang ẩn chứa nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng hàng hoá cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chuỗi cung ứng toàn cầu đang được định hình lại, thúc đẩy các quốc gia, trong đó có Việt Nam tham gia sâu vào các dây chuyền sản xuất và thương mại quốc tế toàn cầu và đòi hỏi phải đầu tư nghiên cứu, triển khai ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao NSLĐ, hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 6.

Mức độ chuyển dịch cơ cấu năng lượng hướng đến một nền kinh tế phát thải thấp (net-zero) vào năm 2050 vẫn còn chậm. Ảnh minh họa: An Vinh.

Khát vọng hùng cường

Những thành tựu của quá trình Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo chiều sâu dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn lực đang tạo ra các tiền đề vật chất để tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

Các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển đã được cải thiện đáng kể: Nguồn lực lao động đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng, có khả năng thích nghi tốt với thay đổi khoa học công nghệ; thu hút nguồn vốn FDI, đặc biệt là FDI xanh vào các lĩnh vực công nghệ, năng lượng, nông nghiệp xanh, đổi mới sáng tạo ngày càng tăng…

Các Hiệp định thương mại song phương thế hệ mới cũng đang tạo ra nhiều cơ hội mở rộng thị trường, thu hút nguồn lực tài chính và thúc đẩy doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp ngày càng lớn vào GDP, tăng thu NSNN và tạo việc làm.

Những thành quả chúng ta đã đạt được trong tiến trình đổi mới là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để vượt qua thách thức bẫy thu nhập trung bình, vươn lên là nước phát triển có mức thu nhập cao, rất cần một sự thay đổi mạnh mẽ, trong đó các chính sách cần theo định hướng sau:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao NSLĐ, chất lượng, đổi mới sáng tạo, xanh và thông minh, giảm phát thải.

Nội dung đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế cần chú ý đến yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả cao và cần có hệ thống giải pháp thúc đẩy sử dụng lao động có năng suất cao. Cần nhấn mạnh chủ trương: Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, đổi mới sáng tạo, giảm phát thải, xanh và thông minh phải gắn liền đảm bảo yêu cầu giải quyết việc làm cho lao động khi Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Kết hợp giữa sử dụng lao động có hiệu quả với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm bảo nâng cao NSLĐ.

Để mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của nước ta phát huy hiệu quả tối đa trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao NSLĐ, bên cạnh việc đổi mới thể chế, cơ chế không chỉ để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá và chiếm lĩnh thị phần xuất khẩu, mà còn phải tạo dựng môi trường cạnh tranh trong thị trường các nhân tố đầu vào của nền kinh tế, đó là thị trường nguyên nhiên vật liệu, thị trường vốn, thị trường lao động và thể chế quản trị doanh nghiệp.

Cần quy định rõ hơn về Đổi mới sáng tạo, bởi đây là nguồn lực quan trọng quyết định đến tăng trưởng bền vững trong dài hạn, thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt, cần hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra.

Thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra- Ảnh 7.

Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC)

Thứ hai, cơ cấu lại các ngành kinh tế và các lĩnh vực trọng tâm theo hướng bền vững, ứng dụng khoa học công nghệ và nâng cao NSLĐ của các ngành kinh tế, hướng đến phát triển kinh tế xanh và thông minh.

Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế phù hợp với xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới. Cơ cấu lại từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.

Cơ cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung phát triển các ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, công nghiệp chế tạo thông minh, thương mại dịch vụ số, tài chính ngân hàng số; công nghiệp hỗ trợ.

Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng cần phải tính toán thoả đáng đến sự phát triển và chuyển đổi các ngành thâm dụng lao động (như dệt may, da giày, lắp ráp cơ khí, điện tử viễn thông…) sang các ngành thâm dụng khoa học công nghệ, việc đào tạo nhân lực, tham gia các chuỗi liên kết, thâm nhập thị trường cần được chú trọng. Nhất là cần có các nghiên cứu, đánh giá xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới để có lộ trình chuyển dịch năng lượng phù hợp ở Việt Nam.

Thứ ba, cơ cấu lại các vùng kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết, hợp tác và thúc đẩy doanh nghiệp vùng tham gia liên kết cung ứng các sản phẩm vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.

Tiếp tục nghiên cứu các tiêu chí phân vùng phù hợp, nâng cao chất lượng quy hoạch vùng theo hướng tích hợp đa ngành, khai thác tốt và phát huy tốt lợi thế so sánh của từng vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí kinh tế chính trị, nguồn nhân lực và tăng tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, tạo không gian phát triển mới. Ngoài phân vùng về mặt địa lý, cần tính toán đến phân vùng không gian số theo chuỗi giá trị, theo liên kết sản xuất theo ngành hàng.

Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nhằm thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ cấu nguồn lực theo hướng hạn chế sử dụng nguồn lực gây ô nhiễm môi trường (kể cả gây ô nhiễm qua nhập khẩu).

Điều này đòi hỏi cần đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư phát triển, thu hút nguồn lực từ khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Trong đó, chú trọng ổn định vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và kiểm soát chặt chẽ thị trường giao dịch đất đai, vàng, ngoại tệ để tránh tình trạng đầu cơ và hạn chế nguồn lực phân bổ tập trung vào thị trường tài sản, thúc đẩy nguồn lực trong dân cư chuyển dịch vào đầu tư dài hạn, vào sản xuất, kinh doanh. Đồng thời chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, thu hút FDI xanh vào lĩnh vực công nghệ thông tin, năng lượng sạch, sản xuất chip bán dẫn, nông nghiệp xanh, dịch vụ chất lượng cao.

Một mặt cần phát triển thị trường vốn an toàn, lành mạnh, đa dạng hóa các kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế thông qua phát triển thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu chuyên nghiệp. Mặt khác cần hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý để tất cả các loại thị trường đều phát triển và cạnh tranh lành mạnh.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao NSLĐ gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong đột phá chiến lược về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng. Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian tới là chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ KH&CN, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong đó, cần xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ, ưu tiên phát triển doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao, thiết kế, sáng tạo; chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài hướng tới hỗ trợ nâng cao NSLĐ quốc gia; chiến lược khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân vươn ra thị trường khu vực và thế giới.

Tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là hết sức quan trọng để áp dụng những công nghệ mới nhất có tính đột phá trong phát triển vào tất cả các ngành, các lĩnh vực, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.

Thứ sáu, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng số để tạo điều kiện chuyển đổi số hiệu quả. Trong đó cần đặc biệt chú trọng xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng cho phát triển kinh tế số, nhất là mạng lưới điện, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, hạ tầng dữ liệu… Phát triển hạ tầng băng thông rộng quốc gia, hạ tầng điện toán đám mây, quản trị dữ liệu quốc gia, hạ tầng dịch vụ định danh và xác thực điện tử tin cậy.

************

Như vậy, với định hướng đúng đắn và chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt với nhiều biện pháp vừa bám sát mục tiêu, vừa chủ động linh hoạt, chúng ta đã và đang từng bước thực hiện được các mục tiêu đề ra, từ một nước nghèo tiến gần đến nước có mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Đây là điều không hề dễ dàng.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu là nước phát triển có thu nhập cao còn khó gấp bội. Bởi đó không còn là sự chuyển biến về lượng mà là một bước chuyển biến về chất, đòi hỏi quyết tâm không đủ mà còn phải là một sự thay đổi lớn lao từ tư duy đến hành động.

Vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm khắc phục những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng hiệu quả, có sức cạnh tranh cao cần dựa trên một cơ cấu kinh tế hợp lý, thay đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế theo hướng tăng nhanh NSLĐ, dựa chắc vào đẩy mạnh khu vực doanh nghiệp và xây dựng đội ngũ doanh nhân dân tộc, gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và lĩnh vực.

Với khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, trên cơ sở những thành quả bước đầu đã đạt được trong hành trình đổi mới, chúng ta có quyền tin tưởng sẽ tận dụng được những cơ hội lịch sử trao cho, kết hợp với sức mạnh nội sinh và xu hướng thời đại, để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước phát triển có thu nhập cao, quốc gia thịnh vượng, nhân dân hạnh phúc./. 

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top