GS.TS. Lê Hồng Hạnh: "Với sự nâng đỡ của thể chế, tôi tin vào khát vọng của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam"

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: "Với sự nâng đỡ của thể chế, tôi tin vào khát vọng của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam"

Thảo Liên
Thảo Liên lienlien.media@gmail.com
Thảo Bùi
Thảo Bùi Buithao021197@gmail.com
Thứ Sáu, 07/03/2025 - 06:00

Xu hướng "phi toàn cầu hóa", với chủ nghĩa bảo hộ lan rộng và hợp tác gói gọn trong các nhóm tiểu đa phương, đang làm thay đổi căn bản cách thức vận hành của nền kinh tế thế giới. Với độ mở thương mại lên tới 200% GDP, Việt Nam là nước dễ chịu "tổn thương" lớn.

Mặt khác, thời đại công nghệ đang khiến cho sự bất định ngày một lớn hơn, chúng hạ thấp rào cản và tăng tốc độ thay đổi với nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Theo giới phân tích, sự mơ hồ và nghịch lý đang có mặt ở khắp mọi nơi. Rất khó để tiến lên phía trước bằng đường thẳng mà buộc các chủ thể trong nền kinh tế, nòng cốt là các doanh nghiệp phải sẵn sàng đối mặt với sự bất định, thích nghi với những biến đổi nằm ngoài tầm kiểm soát.

Đặc biệt, đi cùng với sự tăng trưởng trong quan hệ hợp tác kinh tế với các nước là rủi ro khó tránh liên quan đến các tranh chấp, nhất là khi việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng trên thế giới.

"Doanh nhân của ta thua đau lắm trước các đối tác nước ngoài đã quá trải nghiệm các rủi ro pháp lý", với kinh nghiệm 30 năm xử lý tranh chấp thương mại quốc tế qua hình thức trọng tài, GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) nhận định. Ông cho rằng, để vươn mình trong một thế giới bất định và ngày càng phân cực, tránh rơi vào thế bị động trước các biến động của thương mại quốc tế, cùng với nỗ lực cải cách thể chế của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình "tấm khiên" vững chắc về pháp lý và cách thức làm chủ cuộc chơi. "Khả năng ứng phó với những bất định đang gia tăng và năng lực pháp lý là không thể thiếu nếu các doanh nghiệp muốn nắm bắt được cơ hội và giảm thiểu rủi ro khi tham gia vào môi trường thương mại toàn cầu, và… ngay cả thị trường trong nước", GS.TS. Lê Hồng Hạnh nói.

PV: Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, xu hướng đa dạng hóa nguồn cung, nhu cầu tiêu dùng mới… đang mở ra cánh cửa ngày một rộng lớn hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thách thức kèm theo cũng không ít. Vì sao có tình trạng "doanh nhân của ta thua đau lắm trước các đối tác nước ngoài đã quá trải nghiệm các rủi ro pháp lý", thưa GS?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Công nghệ khiến thế giới trở nên phẳng hơn bao giờ hết. Thương mại toàn cầu hiện nay cho phép ngồi ở bất kỳ đâu cũng có thể mua bán, trao đổi hàng hóa. Dù trực tiếp hay gián tiếp bước vào thị trường quốc tế, dường như tất cả các doanh nghiệp đều đang phải đối mặt với rất nhiều rủi ro pháp lý đến từ các giao dịch thương mại, giao kết hợp đồng với các đối tác, bạn hàng.

Những năm gần đây, VIAC đã giải quyết tổng cộng hàng nghìn vụ tranh chấp trong nước và quốc tế liên quan đến tất cả lĩnh vực như mua bán hàng hóa, vận tải, bảo hiểm, xây dựng, tài chính, ngân hàng, đầu tư và các lĩnh vực khác với các bên tranh chấp đến từ hầu hết các tỉnh thành tại Việt Nam và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ là đối tác kinh tế thương mại hàng đầu của Việt Nam. Có thể thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam thua phần lớn trong những vụ mà họ không lường được hết các rủi ro. Một trong số đó là không tìm hiểu được đối tác. Gần đây có tranh chấp liên quan đến việc thanh toán bằng thư tín dụng L/C. Doanh nghiệp mình không biết rõ về đối tác mà đã ký hợp đồng điện tử, rồi thanh toán. Về hình thức, doanh nghiệp đối tác đó "rất thật" nhưng thực tế lại là công ty "ma", được lập ra chỉ để thực hiện việc rửa tiền. Và rồi, tiền đã trao, đơn hàng dù có nhưng hàng lại không thể cập bến, không nhập khẩu được, vì đó là một hình thức lừa đảo xuyên biên giới.

Thực ra, đối với những doanh nghiệp có luật sư pháp lý chuyên về các giao dịch quốc tế, họ có thể tìm ra thông tin rất dễ dàng và chính xác. Nhưng không ít doanh nghiệp chủ quan, không coi trọng yếu tố này. Trong trường hợp không tìm được thông tin, họ cũng không chuẩn bị các phương án để ứng phó và chừa đường lui cho mình, rằng đối tác đó có thể là A, B hay C - ở cả góc độ tích cực và tiêu cực.

Trong nhiều vụ tranh chấp, có doanh nghiệp đã mất hàng tỷ đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng, thiệt hại rất lớn, thậm chí là mất sạch. Có một thực tế thường thấy ở không ít doanh nghiệp là, khi có được quan hệ là mừng rơn lên, hùng hục ký, đến khi xong xuôi và mất mát mới nhận ra rằng, thị trường không đơn giản như vậy. Việc tìm kiếm thị trường, tìm kiếm "mối làm ăn" và cho ra thành quả không bao giờ dễ dàng theo kiểu "thẳng tắp", đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh thương mại ngày càng gay gắt hơn. Nếu dễ dàng có được thì thường rủi ro cũng không nhỏ và khó có thể lường hết.

Thứ hai, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của ta chưa hiểu rõ và lưu tâm về yêu cầu cũng như các tiêu chuẩn, điều kiện nhập khẩu hàng hóa của các nước, trong khi các tiêu chuẩn đang ngày một khắt khe hơn, nhất là trong khía cạnh bảo vệ môi trường, giảm phát thải.

Ví dụ, có doanh nghiệp đóng hàng loạt các sản phẩm gỗ như bàn, ghế, đồ nội thất để xuất khẩu ra nước ngoài nhưng không đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu, liên quan đến chứng chỉ gỗ sạch - tức là gỗ khai thác có nguồn gốc hợp pháp và không vi phạm các quy định về bảo tồn rừng và đa dạng sinh học, nói chung là gắn liền với bảo vệ môi trường. Một khi hàng xuất sang nhưng không đảm bảo yêu cầu, đối tác sẽ không nhận hàng, doanh nghiệp mình không chỉ mất đi đơn hàng mà còn tốn kém chi phí để đưa hàng về nước.

Mặt khác, nhiều doanh nghiệp không ý thức được rằng, ở thị trường nào cũng có mặt hàng nội địa. Trước sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, nhiều nước đã áp dụng các biện pháp bảo hộ ngành sản xuất nội địa. Nếu hàng mình vào nước họ được người tiêu dùng ưa chuộng bởi yếu tố giá thấp mà sản phẩm không kém gì thị trường nội địa, các nhà cung cấp trong nước sẽ tìm mọi cách để chứng minh doanh nghiệp Việt Nam đang bán phá giá - hành vi bị cấm theo Luật thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp không am hiểu vấn đề này có thể rơi vào các tranh chấp, kiện tụng, và khi khởi kiện, người ta sẽ tìm ra rất nhiều lý do sai phạm khác nhằm loại bỏ mình ra khỏi thị trường của họ, trong đó có vấn đề chất lượng, quy trình theo tiêu chuẩn quốc tế.

Nhiều doanh nghiệp đã phải đối mặt với các vụ kiện bán phá giá như vậy, như trong lĩnh vực hải sản có nhiều vụ liên quan đến tôm, cá basa. Rủi ro ở đây là một khi doanh nghiệp mình bị vướng vào tranh chấp và thua kiện, người ta sẽ không cho nhập khẩu trở lại. Nếu được "đóng băng" hàng hóa quay trở về thì vẫn có thể xử lý được nhưng khi đã bóc xuống, mở ra để thực hiện giám định rồi, thì chỉ có thể hủy bỏ nếu doanh nghiệp nhập khẩu không nhận.

Đó là những rủi ro mà doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào môi trường quốc tế luôn luôn phải tính đến, trong đó, rủi ro pháp lý là bao trùm nhất.

PV: Trong bối cảnh môi trường kinh doanh toàn cầu đang có nhiều biến động, chịu sự ảnh hưởng lớn của các cuộc chiến tranh thương mại và các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo ông, giải pháp nào để có thể gia tăng quyền lợi và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, ở cả góc độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường nội địa?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Chính phủ đã có những biện pháp bảo hộ thương mại, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu trong những trường hợp cụ thể để giảm sức ép cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước từ sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu. Ở thị trường quốc tế, xuất khẩu phục hồi và có sự tăng trưởng bứt phá sau đại dịch Covid 19 nhưng xu hướng bảo hộ thương mại cũng đang ngày càng gia tăng. Trong năm 2024, có những mặt hàng dù có kim ngạch xuất khẩu thấp, nhỏ cũng đã bị điều tra phòng vệ thương mại, trong khi trước đây thường chỉ những mặt hàng có kim ngạch lớn hay hàng công nghiệp có tính cạnh tranh mạnh với các nước mới có nguy cơ bị điều tra.

Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến hết năm 2024, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với khoảng 273 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 25 thị trường nhập khẩu. Đặc biệt, khi các hiệp định thương mại quốc tế thế hệ mới được ký kết và có hiệu lực, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng dần chiếm lĩnh được thị trường, với giá cả cạnh tranh đã gây áp lực rất lớn đối với ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu, cả những thị trường mới cũng đã tiến hành điều tra sản phẩm của Việt Nam như Mexico, Nam Phi…

Với riêng thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ, trong vòng 1 năm qua nước này đã triển khai 10 vụ phòng vệ với đa dạng các loại mặt hàng của Việt Nam. Điều đáng nói là, cách thức điều tra và các quy định pháp luật liên quan từ phía Mỹ luôn có sự thay đổi thường xuyên trong từng vụ điều tra phòng vệ thương mại, đặc biệt là các quy định về lao động, môi trường, hay trợ cấp xuyên biên giới. Khó khăn càng dâng cao với doanh nghiệp Việt tại thị trường này.

Trước các biện pháp thuế quan tiềm tàng và xu hướng tăng phòng hộ thương mại từ những thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, tăng cường hợp tác chiến lược, đảm bảo sự phát triển bền vững quan hệ song phương, bảo vệ lợi ích thương mại của doanh nghiệp xuất khẩu… là những giải pháp đang được các nhà chức trách thực hiện.

Nhưng với rào cản này, tôi cho rằng, doanh nghiệp cần chủ động vượt qua, chủ động tìm kiếm những giải pháp ứng phó phù hợp để chuyển hóa rủi ro thành cơ hội. Sự hỗ trợ của Chính phủ chỉ là một phần, còn lại thắng hay thua trên thương trường vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân các doanh nghiệp. Nếu vận động xin được bảo hộ thì vẫn phải đối mặt với kiện cáo của các bên, không là chống phá giá thì sẽ là chống trợ cấp, bởi các chính sách bảo hộ của Chính phủ dễ bị coi là trợ cấp và bị điều tra, áp thuế chống trợ cấp.

PV: Khi các cuộc điều tra chống bán phá giá gia tăng, có lẽ các doanh nghiệp cần "xem nhẹ" hơn yếu tố cạnh tranh về giá khi thâm nhập vào thị trường quốc tế nơi mà các đối thủ ngày càng chuyên nghiệp, thưa ông?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Điều đó có nghĩa là cần chú trọng hơn về chất lượng, cạnh tranh bằng chất lượng, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của từng sản phẩm. Tức là nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm phải rõ ràng ngay từ nguyên, vật liệu đầu vào và nên chú trọng nguyên, vật liệu trong nước.

Nếu doanh nghiệp nhập phôi thép của Trung Quốc về nhưng thành phẩm lại dán mác do Việt Nam sản xuất hay có những mặt hàng nhập khẩu hết, chỉ có lao động là của Việt Nam thôi thì có được coi là hàng made-in Việt Nam hay không? Đây là một rủi ro pháp lý liên quan đến lẩn tránh thuế, hoặc gian lận xuất xứ có thể bị điều tra và trừng phạt nặng. Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cũng như đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu để tránh khi có vụ việc xảy ra sẽ mất luôn thị trường, khiến đầu ra sản phẩm bị ách tắc.

Doanh nghiệp cần có một tư duy cẩn trọng và tầm nhìn xa, nghiên cứu sâu lĩnh vực và thị trường mà mình đang kinh doanh để tuân thủ đúng quy định của nước sở tại; nhận diện và phân tích kỹ các rủi ro có thể xảy đến, ít nhất là những rủi ro cơ bản mà nếu chịu khó tìm hiểu, đánh giá là có thể nhận diện được, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát. "Cái khiên pháp lý" rất cần cho các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay. Bởi nếu đi sai thị trường thì vẫn có thể tìm thị trường mới, đối tác không tốt thì có thể tìm đối tác khác nhưng dính líu đến tranh chấp, kiện tụng liên quan đến các vấn đề pháp lý thì có khi phải đánh đổi bằng cả sự nghiệp, tài sản.

"Cái khiên pháp lý" rất cần cho các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay. Bởi nếu đi sai thị trường thì vẫn có thể tìm thị trường mới, đối tác không tốt thì có thể tìm đối tác khác nhưng dính líu đến tranh chấp, kiện tụng liên quan đến các vấn đề pháp lý thì có khi phải đánh đổi bằng cả sự nghiệp, tài sản.
GS.TS. Lê Hồng Hạnh

Lưu ý là, tranh chấp là điều không thể tránh khỏi, chắc chắn sẽ có những tình huống phải đối mặt, bởi còn nhiều sự bất định và biến số khó có thể lường trước. Rủi ro có thể phát sinh theo từng thời điểm khác nhau và ở mọi nơi trong các hợp tác kinh tế, thương mại. Vậy nên doanh nghiệp cần dũng cảm, thẳng thắn đối diện với các rủi ro và chủ động lựa chọn cho mình hình thức xử lý tranh chấp khi có phát sinh. Điều này nên được thảo luận rõ ràng ngay từ khi soạn thảo và đưa vào hợp đồng.

Xét xử để giải quyết tranh chấp là tốt, nhưng mà không xử thì vẫn tốt hơn. Nếu trong trường hợp phải giải quyết tranh chấp, tôi mong các doanh nghiệp lựa chọn phương thức dựa trên quyền tự quyết của các doanh nghiệp, đó là thông qua trọng tài hay hòa giải.

Năm vừa qua, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam xử lý 476 vụ tranh chấp thương mại, so với các năm trước thì có tăng, nhưng so với nhu cầu để giúp nền kinh tế giải phóng nguồn lực thì vẫn chưa là gì cả. Bởi vì, những tranh chấp có giá trị hàng nghìn tỷ vẫn nằm ở đó, nếu giải quyết nhanh thì hàng nghìn tỷ đó sẽ được giải phóng để đưa vào thị trường, để đầu tư. Còn nếu cứ tồn đọng kéo dài, không giải quyết, nguồn lực lớn của doanh nghiệp sẽ nằm bất động.

PV: Làn sóng FDI vào Việt Nam tiếp tục gia tăng, theo quan sát của ông, môi trường kinh doanh trong nước có chịu tác động hay không?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Có cả cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng thách thức có thể đang nhiều hơn. Bởi phần đa doanh nghiệp nhỏ và vừa của chúng ta đang khó có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn để tham gia được vào chuỗi cung ứng, hệ sinh thái mà các doanh nghiệp FDI mang tới. Đặc biệt với những "gã khổng lồ" tiềm lực tài chính lớn, mạnh về công nghệ sản xuất, công nghệ quản trị, quy trình tuyển dụng nhân sự chặt chẽ, yêu cầu cao về trình độ kỹ thuật, thường các doanh nghiệp nước ta khó tiếp cận được, chưa nói đến vấn đề cạnh tranh.

Về mặt chính sách, dù trong các chính sách và pháp luật đã không còn tình trạng phân biệt đối xử quá lớn giữa các thành phần kinh tế, nhưng thực tế trong ứng xử của chính quyền địa phương, bộ ngành vẫn có biểu hiện cố làm vừa lòng các doanh nghiệp FDI và đôi khi họ hành xử với doanh nghiệp trong nước một cách thiếu công bằng.

Đây cũng là "dấu ấn" để lại của cơ chế kế hoạch hóa trước đây, khi chúng ta tách riêng luật Luật Đầu tư nước ngoài với Luật Đầu tư ở trong nước và thể hiện rõ sự phân biệt trong đối xử. Ở giai đoạn đầu cần thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài nên buộc phải tạo ra nhiều lợi ích để thu hút đầu tư cho bằng được. Ví dụ, giá thuê đất hấp dẫn, điều kiện thuê đất cũng dễ dàng hơn so với trong nước. Doanh nghiệp trong nước để có thể trả tiền thuê đất suốt 50 năm là điều vô cùng khó khăn, thường thì họ không thể thuê đất và trả tiền sử dụng đất trong 50 năm, 30 năm, hay 20 năm được. Buộc họ phải thuê đất hàng năm, nhưng quy chế pháp lý của đất thuê hàng năm lại khác với thuê đất 50 năm, đó là không được đem đi cầm cố, thế chấp để vay vốn. Đó là chưa kể đến đủ các rào cản trong thủ tục đầu tư.

Luật Đất đai 2024 đã tháo nhiều nút thắt cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất đai nhưng vẫn còn lo ngại về thái độ, cách ứng xử của chính quyền địa phương trong thực thi bởi tư duy và ứng xử "nhất bên trọng, nhất bên khinh" cố hữu. Nhưng tình hình đã khác hơn, buộc người ta phải nhận ra rằng, chỉ khi doanh nghiệp mình mạnh, thì địa phương mới mạnh và đất nước mới mạnh. Mô hình tăng trưởng phải thay đổi dựa trên sự trân trọng và thúc đẩy đội ngũ doanh nghiệp tư nhân, giảm thiểu sự phụ thuộc vào khối FDI thì mới có thể "phất" lên được.

PV: Năm 2025 được xem là thời điểm bản lề tổng kết 40 năm Đổi mới và mở đầu cho một cuộc đổi mới lần thứ 2 của nền kinh tế. Lúc này, vai trò động lực của kinh tế tư nhân đang được nhắc đến rất nhiều. Có thể thấy rằng, dường như mỗi lần nền kinh tế đứng trước ngã rẽ, kinh tế tư nhân lại được trao cơ hội để vươn lên. Nhìn lại lịch sử, ông có suy nghĩ như thế nào và bối cảnh hiện nay, trước những thách thức mới mang tính toàn cầu, phải chăng, cần có một làn sóng cải cách mới mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn giúp kinh tế tư nhân bứt phá?

GS. TS. Lê Hồng Hạnh: Trước khi Hiến pháp 1992 ra đời, mà quằn quại, đau đớn hơn là giai đoạn Hiến pháp 1980 trở về trước, kinh tế kế hoạch hóa tập trung "thống soái" và chi phối mọi thứ, từ hệ thống chính trị đến hệ thống pháp luật và kinh tế, xã hội. Ở giai đoạn đó, kinh tế tư nhân đã từng được coi là mảnh đất nảy sinh chủ nghĩa tư bản bóc lột, bất bình đẳng. Tất cả những bất công trên đời đều quy kết cho kinh tế tư nhân. Sự kỳ thị này đã tạo ra rất nhiều trói buộc khiến kinh tế tư nhân bị vùi dập, không thể ngóc đầu lên nổi.

Để có thể hình dung, tôi muốn kể lại cho các bạn nghe về câu chuyện của doanh nhân Nguyễn Văn Chẩn, người được mệnh danh là "vua lốp" ở Hà Nội một thời. Ông Chẩn lập nghiệp với nghề dép cao su tái chế từ lốp ô tô hỏng vào những năm 50 của thế kỷ trước. Khi mở được một cửa hiệu nhỏ, làm ăn phát đạt, ông bị quy kết là tư sản mới, bị tịch thu tài sản và phải đi cải tạo. Ra trại, ông chuyển sang làm bút mực từ nhựa phế thải tái sinh, chất lượng tốt, giá lại rẻ, ra lô nào bán hết lô đó nhưng sau đó lại bị xử tội tàng trữ và đầu cơ, sản xuất trái phép và bị phạt 30 tháng tù giam dù thương hiệu bút của ông đã đăng ký sản xuất.

Sau khi được minh oan, không bỏ cuộc, ông làm nhựa vá săm, đắp lốp xe thồ, xe đạp nhưng cũng lại bị bắt giữ điều tra vì tội "ăn nên làm ra vùn vụt, chắc phải có gian lận". Được thả sau đó vài tháng, suốt nhiều năm ông không làm nghề cũ nữa nhưng cái duyên với lốp xe lại trở lại tìm ông vào năm 1979. Rồi đến 1980, khi đất nước vẫn còn khan hiếm hàng hóa, ông Chẩn đã cho ra đời thương hiệu lốp Quyết Thắng, tiên phong sản xuất lốp cao su từ phế liệu, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội. Với sự nhạy bén và tinh thần đổi mới, ông tạo việc làm cho nhiều lao động, xây dựng cơ nghiệp đáng nể từ hai bàn tay trắng. Thậm chí, đã có hãng sản xuất săm lốp ô tô nổi tiếng trên thế giới, trụ sở tại Pháp cử đại diện đến gặp ông tìm hiểu cơ hội hợp tác làm ăn.

Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ, tư duy làm kinh tế tư nhân của ông bị xem là "đi chệch đường lối". Ông bị cáo buộc "tự ý sản xuất" làm "rối loạn" nền kinh tế mà trong đó, mọi sản phẩm đều do Nhà nước lên kế hoạch, giao chỉ tiêu từ khâu sản xuất cho đến khâu tiêu thụ. Chỉ trong hai tuần, toàn bộ tài sản, xưởng sản xuất của ông bị tịch thu, bản thân ông bị truy nã và phải liên tục kêu oan nhiều năm sau đó, cho đến khi được minh oan và trả lại một phần tài sản.

Nhắc lại câu chuyện này để các bạn hiểu là thời kỳ đó, kinh tế tư nhân khổ lắm. Chính quyền ứng xử vô cùng hà khắc với sản xuất, kinh doanh tư nhân, dù họ không làm gì sai cả, họ tìm tòi, sáng tạo và làm giàu một cách chân chính.

Sau Đại hội VI (1986), Luật Công ty 1990 ra đời đã tạo ra bước ngoặt lớn. Đến Đại hội VII (6/1991), từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế "tàn dư" của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần sự "cải tạo" thích hợp, kinh tế tư nhân đã thực sự được xem là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Hiến pháp 1992 chính thức thừa nhận các thành phần kinh tế là bình đẳng, tạo nền tảng cho sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999. Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh…

Tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2002), lần đầu tiên, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được Trung ương đưa ra thảo luận trong một chuyên đề riêng và ra Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân". Trong đó, Nghị quyết khẳng định, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Công cuộc đổi mới đã tạo nền móng cho một tinh thần cải cách chính sách để kinh tế tư nhân được cởi trói và trỗi dậy mạnh mẽ, đưa Việt Nam từ nền kinh tế tập trung, bao cấp dần tự chủ và hội nhập, vươn ra thế giới bằng chính nội lực của mình.

Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, các chủ thể bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật với các thành phần kinh tế khác.

Tôi nghiên cứu và theo dõi thường xuyên để đánh giá vì thực ra tôi luôn ở bên cạnh các doanh nghiệp trong suốt quá trình công tác của mình và nhìn thấy được những đóng góp lớn lao của họ.

Doanh nghiệp có phát triển thì đất nước mới có thể giàu mạnh. Nhưng những rào cản vô hình từ tư duy cố hữu trước đây vẫn còn, khiến doanh nghiệp tư nhân vẫn đi sau, không được đối xử bình đẳng, dù đóng góp và hiệu quả thì rõ ràng hơn so với doanh nghiệp Nhà nước rất nhiều.

Tư duy đó một phần xuất phát từ chủ trương coi kinh tế nhà nước là "chủ đạo". Dẫn đến trong quá trình thực thi, dù chủ trương là bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng ở góc độ nào đó, doanh nghiệp Nhà nước vì là "chủ đạo" nên vẫn thường được ưu tiên hơn so với doanh nghiệp tư nhân, trong cả việc vay vốn hay giao đất làm các dự án lớn. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty quy mô được Nhà nước đầu tư để thành lập. Đóng góp chưa đong đếm nhưng tham nhũng, mất mát gây ra từ phía các doanh nghiệp nhà nước là không ít.

Trong lúc đó, dù tự "bươn chải" nhưng doanh nghiệp tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc, trong đó có nhiều tập đoàn đi lên phơi phới như Vingroup, Sun Group, THACO, TH, Hòa Phát… và hàng loạt doanh nghiệp khác, đưa hình ảnh kinh tế của đất nước đi lên, chứng tỏ vai trò của kinh tế tư nhân cao hơn rất nhiều.

Vậy yếu tố chủ đạo của kinh tế nhà nước là gì, về đóng góp ngân sách, về hiệu quả đầu tư, năng suất lao động hay là cái gì? Cần phải xác định rõ về mặt tư duy để tránh trong thực tiễn có những ứng xử không đúng xuất phát từ việc nhìn nhận không đầy đủ vai trò của từng thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.

Năm 2017, Nghị quyết số 10 của Ban Chấp hành Trung ương xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân; xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, đúng hướng; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực…

Rất nhiều vấn đề, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân đã được đặt ra nhưng cũng giống như ở giai đoạn trước, nghị quyết này vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Nhiều "lối nghẽn" đối với doanh nghiệp tư nhân vẫn còn tồn tại khiến khiến khu vực này phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò động lực quan trọng đối với nền kinh tế, như đã được xác định.

PV: Là người gần doanh nghiệp, hiểu doanh nghiệp khi có hành trình công tác luôn gắn bó, đồng hành với những cú sốc và nỗi đau thương trường, ông có nhắc đến hiệu quả đóng góp của doanh nghiệp tư nhân. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này và những cảm nhận về khát vọng và sứ mệnh lịch sử của họ từ quan sát của mình?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Chắc chắn doanh nghiệp tư nhân chưa được hưởng nhiều từ nhiều từ ngân sách nhưng lại đóng góp cho ngân sách rất lớn. Hiệu quả nằm ở chỗ đó. Thứ hai là khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp đã tạo ra thị trường lao động, giải quyết tới 85% việc làm cho người dân và quyết định tới số lượng, chất lượng của gần 50% GDP của Việt Nam.

Điển hình một chút, hãy nhìn xem Vingroup đang làm gì cho đất nước. Đóng góp của họ, phải nói rằng, đã giúp thay đổi luôn hình ảnh của Việt Nam theo chiều hướng rất tích cực. Tôi ấn tượng với Vingroup ở việc họ đã kết nối được với các nhà khoa học trên thế giới thông qua giải thưởng Vin Future - một giải thưởng uy tín được các nhà khoa học trên toàn cầu hưởng ứng. Đã có nhà khoa học nhận giải Vin Future sau đó được nhận giải thưởng Nobel, chứng tỏ, Vingroup đã tạo ra được quỹ dành cho những nhà khoa học xuất chúng nhất của nhân loại. Nhìn vào những thành tựu đó mới thấy hình ảnh của Việt Nam được tôn vinh như thế nào trên trường quốc tế, trước hết là trong mắt các nhà khoa học.

Hướng đến mục tiêu của Chính phủ là phát thải ròng bằng 0, một cách lặng lẽ, Vingroup đã vượt qua mọi rào cản ban đầu để bước vào lĩnh vực xe điện. Khi làm được xe rồi, họ phải vật lộn với tất cả các giải pháp để kích cầu người dân sử dụng xe điện. Mở rộng lĩnh vực kinh doanh nhưng gắn liền với trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với cộng đồng và môi trường, chọn đường khó để tiên phong dẫn lối, thì không đơn thuần là câu chuyện kinh doanh làm giàu hay lợi nhuận nữa rồi. Đó là doanh nghiệp dân tộc và Việt Nam cần nhiều hơn những doanh nghiệp có tư duy, cách làm như vậy; không ngừng khởi nghiệp và không ngừng đổi mới sáng tạo.

PV: Trước những mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy thách thức, khu vực doanh nghiệp tư nhân đang được xem xét để trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng. Trước mắt, Chính phủ cho biết sẽ trình Trung ương ban hành Nghị quyết riêng cho kinh tế tư nhân, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt. Theo ông, sự thay đổi lập trường theo hướng coi trọng hơn vai trò của kinh tế tư nhân có thể mang lại những thay đổi gì trong điều hành chính sách, tạo động lực cho khối doanh nghiệp tư nhân phát huy nội lực trong thời gian tới?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Nhấn mạnh và khẳng định vai trò quan trọng, thậm chí là quan trọng nhất của kinh tế tư nhân trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển mình và cần những đổi mới mang tính đột phá sẽ giúp thay đổi nhận thức, tạo nền tảng để chuyển hóa thành hành động cụ thể trong việc thúc đẩy kinh tế tư nhân. Nhưng khi Nghị quyết 10 nói trên với các nội dung khá toàn diện vẫn chưa được thực hiện triệt để thì liệu có cần thêm một nghị quyết khác không là vấn đề cần xem xét và cân nhắc kỹ. Bởi kể cả các luật mới được ban hành hay sửa đổi, chưa chắc đã thể chế hóa hết được đúng tinh thần được đặt ra trong nghị quyết đã có.

PV: Tức là điều mấu chốt không nằm ở nghị quyết mới, như đang được mong chờ?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Sự thay đổi về mặt tư duy, nhận thức đối với kinh tế tư nhân phải thực sự triệt để trong thực tiễn, trong công việc hàng ngày của những người thực thi chính sách thì mới có thể tạo ra hiệu quả trên thực tế. Còn tư duy vẫn chưa thoáng thì khó có thể cụ thể hóa được nghị quyết một cách đúng đắn thông qua các quy định pháp luật hay các biện pháp hỗ trợ và thúc đẩy.

Bây giờ, để bứt phá, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, phải biến thể chế từ chỗ là điểm nghẽn của điểm nghẽn trở thành "đột phá của đột phá".

Vấn đề là thể chế hóa ra sao, biến chủ trương thành luật như thế nào, nếu không, chỉ đơn thuần là khẩu hiệu. Ví dụ như Luật Đất đai 2024 dù đã có nhiều tháo gỡ về pháp lý, nhưng khi triển khai vẫn rất vướng, như vấn đề liên quan đến dự án có sử dụng đất vẫn còn chưa rõ ràng trong khi dự án nào cũng cần sử dụng đất, không biết thực thi thế nào. Vấn đề khác là, việc bỏ khung giá đất dù đã được thể chế hóa nhưng sử dụng bảng giá đất hàng năm chưa chắc đã "hay". Việc định giá đất theo 4 phương pháp đang khiến cho mọi thứ chững lại vì không dễ dàng để tính toán, người ta lo sợ định giá sai và phải chịu trách nhiệm cho cái sai đó, thành ra không dám quyết, không dám ký. Rủi ro chính sách cho doanh nghiệp vẫn còn rất lớn.

PV: Cảm nhận về những thay đổi hiện tại vẫn ở mức khẩu hiệu, nhưng ở một góc độ nào đó, vẫn cần có những thôi thúc như vậy để tạo ra sự đột phá, thưa ông?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Việc nâng cao vai trò của kinh tế tư nhân không chỉ thể hiện khía cạnh kinh tế mà còn là câu chuyện niềm tin và sự đồng hành. Tạo sự thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc cải cách thể chế, thiết lập và duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân là rất cần thiết, có thể như là một "liều thuốc tinh thần" giúp cho các doanh nghiệp có thêm niềm tin vào thể chế để tự tin đổi mới và sáng tạo.

Khẩu hiệu là câu chuyện của trước đây. Còn từ thời điểm này trở đi, tôi cho rằng, sẽ có rất nhiều điều được cởi mở và sẽ có sự đột phá. Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu đã thể chế hóa rất cụ thể nhiều chủ trương, tạo sự bình đẳng và thúc đẩy kinh tế tư nhân. Và sẽ có nhiều vấn đề sẽ được giải quyết thông qua luật, nghị định, thông tư… Tư duy xây dựng pháp luật là phải ngắn gọn, rõ ràng và minh bạch hơn, bám sát thực tiễn hơn để tạo nền tảng, nâng đỡ hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp.

PV: Doanh nghiệp được tự do kinh doanh "những gì pháp luật không cấm" nhưng thực tiễn hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với đổi mới sáng tạo thường đi nhanh hơn so với sự thay đổi của pháp luật. Điều này tạo ra khoảng mờ "những gì pháp luật không cấm" với "pháp luật chưa có quy định", có thể dẫn tới nhiều rủi ro không đáng có trong tương lai, hạn chế tầm nhìn và khả năng sáng tạo, tìm tòi những phương thức, mô hình kinh doanh mới của doanh nghiệp. Theo ông, tư duy này cần được quán triệt ra sao để tạo ra không gian cho doanh nghiệp bứt phá, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần quán triệt vấn đề loại bỏ cách tiếp cận và tư duy "không quản được thì cấm", để doanh nghiệp, người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Hy vọng rằng điều này sẽ được làm rõ trong các văn bản luật.

Còn hiện tại, ngay cả tòa án cũng không thực hiện được điều này. Khi xét xử mà thấy vấn đề không có trong luật là không được, không biết xử lý ra sao. Trong khi lẽ ra nếu không có luật mà xảy ra tranh chấp hay vướng mắc thì phải dựa trên sự công bằng và tính thuyết phục liên quan đến lợi ích giữa các bên để xem xét. Nếu không mọi thứ sẽ tắc nghẽn, không giải quyết được. Luật không quy định nên không xử được thì tức là đang hiểu những gì không có trong luật là không được làm. Hiểu như vậy là sai.

Bên cạnh đó, có những vấn đề phát sinh trong thực tiễn luật mà pháp luật không theo kịp để mà điều chỉnh, quản lý. Do không quản được nên khi làm luật lại cấm luôn để đỡ phải quản. Điều này rất tệ vì gây ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp và kìm hãm sự phát triển.

PV: Tức là phải làm rõ hơn về những gì "pháp luật không cấm" và "pháp luật chưa quy định"?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Nếu quy định thì phải cấm ngay từ đầu, phải xác định rõ cái cần cấm, còn không cấm thì vẫn phải cho người ta làm. Điều này đòi hỏi tính minh bạch, rõ ràng và kịp thời của pháp luật. Cần có nguyên tắc, cơ chế thực thi pháp luật trong trường hợp pháp luật còn khiếm khuyết, còn quy định mâu thuẫn, chồng chéo hoặc quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì người dân được quyền lựa chọn và làm theo quy định nào có lợi cho mình nhất. Làm được như vậy sẽ theo đúng chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm là không chuyển khó cho người dân, doanh nghiệp; pháp luật phải định hướng cho sự phát triển.

Doanh nghiệp không thể "vươn mình" trong một môi trường pháp lý "vừa làm vừa sợ". Do đó, tư duy xây dựng luật pháp phải thay đổi theo hướng bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn khách quan. Cách tiếp cận khi xây dựng luật cũng cần thay đổi theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành theo đúng tinh thần của Trung ương nhưng không được tạo ra cho cơ quan quản lý chức năng là cơ quan làm luật nhiều hơn là chức năng thi hành pháp luật để quản lý. Chính phủ trong thời gian vừa qua đã cùng các bộ ngành làm luật nhiều hơn là điều hành nền kinh tế, quản lý xã hội dựa trên luật do Quốc hội ban hành.

GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH
Doanh nghiệp không thể "vươn mình" trong một môi trường pháp lý "vừa làm vừa sợ". Do đó, tư duy xây dựng luật pháp phải thay đổi theo hướng bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn khách quan.

Bệnh cạnh đó, cần hết sức lưu ý vấn đề kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đồng thời, chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển xanh…; xây dựng cơ chế thí điểm những vấn đề mới…

Doanh nghiệp đang rất mong chờ vào những cải cách mạnh mẽ hơn nữa nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng thể chế minh bạch và hiệu quả. Tất cả nhằm giúp các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa có thể yên tâm lớn mạnh.

Nền kinh tế cần có nhiều hơn những doanh nghiệp vừa, lớn và phát triển lành mạnh và đóng góp công sức vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần hiện thực hóa khát vọng hùng cường của dân tộc. Nhưng coi trọng các tập đoàn, doanh nghiệp lớn không có nghĩa là xem nhẹ vai trò của lực lượng đông đảo doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể - nơi khởi nguồn của đổi mới sáng tạo.

Đóng góp của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế còn có thể lớn hơn nữa nếu những tiềm năng được giải phóng và không gian phát triển dành cho doanh nghiệp được mở rộng hơn.

PV: Với bản thân các doanh nghiệp, nhiều kỳ vọng và cơ hội đang mở ra nhưng thách thức cũng không ít. Ngoài vấn đề cần chuẩn bị "áo choàng pháp lý", môi trường kinh doanh toàn cầu hiện nay đang đòi hỏi gì ở các doanh nghiệp nếu muốn làm chủ cuộc chơi, thưa ông?

GS.TS. Lê Hồng Hạnh: Với các doanh nghiệp, điều quan trọng nhất là nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Nếu không chú trọng đến các nguồn lực hiện có và khai thác tối đa hiệu quả, tránh lãng phí thì rất khó để phát triển bền vững. Đó là sự đi lên từng bước một, từ những gì mình có và thể hiện ra đúng như những gì mình có. Có doanh nghiệp vừa mới thành lập mà ông chủ đã đi xe sang, tậu nhà sang bởi tư duy rằng phải thể hiện ra như vậy thì mới có được thị trường. Nguồn lực dành cho sự hào nhoáng bên ngoài thay vì đầu tư để nâng cao năng lực, và những gì thực sự cần thì sớm muộn cũng sẽ trở thành con nợ và phá sản lúc nào không hay.

Thứ hai là vấn đề năng suất. Năng suất hiện nay phải gắn liền với công nghệ. Phải tăng cường ứng dụng công nghệ để tăng năng suất, giải phóng sức lao động, và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn kinh doanh quốc tế.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh đến tinh thần đổi mới sáng tạo. Nhà nước đang kiến tạo không gian, việc của các doanh nghiệp là tự chủ và tạo ra đột phá. Bối cảnh hiện nay, tranh thủ được cơ hội là doanh nghiệp có thể lớn rất nhanh trong ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà mình theo đuổi. 

Với sự nâng đỡ của thể chế, tôi tin vào khát vọng của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Được trao cơ hội, được mở rộng con đường, họ sẽ tạo nên kỳ tích. Các mục tiêu đặt ra dù khó nhưng có điều kiện để hiện thực hóa được. Và suy cho cùng, dám mơ lớn là đã đi được một nửa chặng đường rồi!

- Trân trọng cảm ơn GS những chia sẻ thú vị ngày hôm nay!

Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.

Mùa xuân năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.

Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được xem xét, định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Một nghị quyết mới về kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.

Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.

Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đang nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.

Trân trọng giới thiệu tới độc giả!


Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top