Doanh nghiệp nội địa là "bệ phóng" thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững

Doanh nghiệp nội địa là "bệ phóng" thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững

Dương Minh Anh
Dương Minh Anh duongminhanh070902@gmail.com
Thứ Tư, 19/02/2025 - 06:05

Năm 2025 mở ra một giai đoạn quan trọng với những mục tiêu mới thể hiện khát vọng phát triển của Việt Nam. Chính phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm nay vượt 8%, tạo đà để phấn đấu mức tăng trưởng lên 2 con số từ năm 2026, thể hiện quyết tâm cao của cả hệ thống trong việc thúc đẩy đưa nền kinh tế bước vào kỷ nguyên mới.

Dù còn rất nhiều thách thức, nhưng theo các chuyên gia, việc đạt mục tiêu này không phải bất khả thi. Việt Nam còn nhiều dư địa phát triển nhờ những nguồn lực sẵn có, từ tăng trưởng tín dụng, sự phục hồi của doanh nghiệp nội địa đến những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ.

Tuy nhiên, để đạt được mức tăng trưởng như kỳ vọng, điều kiện tiên quyết vẫn là cải cách thể chế. Những nút thắt về thủ tục cần được tháo gỡ để trở thành động lực thay vì tạo ra rào cản. 

Với tinh thần đổi mới, nỗ lực, quyết tâm và tận dụng tối đa các cơ hội, nền kinh tế Việt Nam đang ở "thời điểm vàng" để bứt phá mạnh mẽ. Để làm rõ hơn những vấn đề này, Reatimes đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

PV: Ông đánh giá như thế nào về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024 vừa qua?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Việt Nam đạt mốc 7,09%, vượt mức kỳ vọng mà Quốc hội đặt ra vào đầu năm và chỉ thấp hơn tốc độ tăng trưởng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011 - 2024. Đây là một kết quả rất tích cực, tạo tiền đề vững chắc cho các mục tiêu kinh tế cao hơn trong năm 2025 và hoàn thành kế hoạch 5 năm (2021 - 2025). Tốc độ tăng trưởng này thể hiện nỗ lực rất mạnh mẽ của các chủ thể khác nhau của nền kinh tế, bao gồm Chính phủ, Quốc hội, chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.

Đặc biệt, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế trong năm 2024. Trước những thiệt hại do thiên tai, ngành ngân hàng đã triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng, giúp họ vượt qua khó khăn và phục hồi sản xuất.

Ngân hàng Nhà nước cũng đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều hành, Ngân hàng Nhà nước chủ động trong phối hợp với chính sách tài khóa và một số chính sách khác để đưa ra các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế thế giới và thực tế trong nước. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng trên 12% so với cuối năm 2023, khách hàng có nhu cầu vay vốn chính đáng phục vụ sản xuất kinh doanh đều được tiếp cận với với lãi suất hợp lý, tỷ giá ngoại tệ, vàng, tỷ lệ lạm phát có biến động song ở mức phù hợp với thực tiễn.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước kịp thời đề xuất với Chính phủ ban hành các Nghị định, trực tiếp ban hành các Thông tư hướng dẫn triển khai Luật Các Tổ chức tín dụng 2024 có hiệu lực từ ngày 1/8/2024. Các Nghị định, Thông tư ban hành đi vào cuộc sống phù hợp với thực tiễn không gây ách tắc trong quá trình triển khai.

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. (Ảnh: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam)

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. (Ảnh: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam)

Đối với hoạt động chuyển đổi số, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo quyết liệt chuyển đổi số, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo an toàn, thông suốt trong hoạt động thanh toán của nền kinh tế. Đặc biệt, sau gần 5 tháng triển khai đồng bộ các giải pháp thanh toán nhằm đảm bảo an toàn theo Quyết định 2345 của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động thanh toán diễn ra thông suốt, đến ngày 1/11/2024 đã có hơn 50 triệu tài khoản của khách hàng được thu thập, đối chiếu thông tin sinh trắc học thành công, số vụ lừa đảo giảm 50% so với các tháng đầu năm.

Có thể thấy, những đóng góp của ngành ngân hàng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2024, đánh dấu một năm tăng trưởng vững chắc, ấn tượng của nền kinh tế Việt Nam. Đây sẽ là yếu tố quan trọng tạo đà cho năm 2025 và những năm tiếp theo với nhiều triển vọng tích cực.

PV: Thưa ông, Chính Phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 trên 8% và phấn đấu tăng trưởng lên 2 con số, ông đánh giá thế nào về mục tiêu này?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Kỳ vọng của Chính phủ là trong nhiệm kỳ tới, tăng trưởng kinh tế sẽ đạt mức 2 con số. Tôi đánh giá, đây là một nước đi táo bạo, mang ý nghĩa chiến lược quan trọng, nhằm xây dựng nền tảng cho một giai đoạn phát triển vượt bậc. Đồng thời, đây cũng là một trong những quyết tâm rất lớn của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế.

Mặc dù vẫn còn rất nhiều thách thức, song, với những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong năm 2024, mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm 2025 hoàn toàn khả thi nếu tiếp tục duy trì những nỗ lực vượt bậc và thực hiện các biện pháp hiệu quả hơn. Mục tiêu này đòi hỏi cả sự tăng trưởng về số lượng và cải cách mạnh mẽ về chất lượng, từ thể chế cho đến đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Mặc dù vẫn còn rất nhiều thách thức, song, với những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong năm 2024, mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm 2025 hoàn toàn khả thi nếu tiếp tục duy trì những nỗ lực vượt bậc và thực hiện các biện pháp hiệu quả hơn.
Doanh nghiệp nội địa là "bệ phóng" thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững- Ảnh 2.TS. Nguyễn Quốc Hùng


Mặc dù không thể dự đoán ngay chính xác con số cụ thể, nhưng ít nhất vào cuối nhiệm kỳ tới, nền kinh tế sẽ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng có thể sẽ đạt ngưỡng hai con số, mở ra đà tăng trưởng bền vững trong tương lai.

Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần áp dụng những chính sách mới mẻ và quyết liệt hơn, với quan điểm làm hết sức để đạt được mức tăng trưởng cao. Đây chính là thời điểm bắt đầu cho một hành trình phát triển bền vững và thịnh vượng.

PV: Đâu sẽ là những động lực chính để có thể đạt mục tiêu tăng trưởng này, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Theo tôi, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế vượt 8% năm 2025 và phấn đấu tăng trưởng lên 2 con số, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt từ toàn bộ hệ thống chính trị và một cơ chế đồng bộ, thống nhất. Sau khi hoàn thiện mô hình tổ chức, tôi kỳ vọng sẽ có sự thay đổi căn bản trong thủ tục hành chính. Yếu tố này đóng vai trò then chốt trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI); đồng thời giúp tiết giảm chi phí và cũng là cơ hội thúc đẩy sự tăng trưởng cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, việc triển khai các chính sách tạo nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư công cũng là yếu tố rất quan trọng. Khi bộ máy hành chính được tinh gọn, ngân sách nhà nước sẽ giảm đáng kể; từ đó, nguồn lực này sẽ được chuyển hướng sang hỗ trợ an sinh xã hội và thúc đẩy đầu tư công. Đầu tư công trở thành động lực cốt lõi, tạo đà cho sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế. Do đó, sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác là cực kỳ quan trọng, đảm bảo giải quyết hiệu quả các thủ tục hành chính và hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Một động lực quan trọng khác là thu hút vốn FDI - yếu tố không thể thiếu trong quá trình tăng trưởng. Chính phủ cần tạo ra một môi trường đầu tư minh bạch, rõ ràng và thuận lợi, với những chính sách khuyến khích hợp lý. Đặc biệt, lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành một điểm sáng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam cần học hỏi, nắm bắt để mở ra cơ hội phát triển kinh tế bền vững cho đất nước.

Để có thể phát huy hiệu quả những động lực trên, ngành ngân hàng và các bộ, ngành liên quan cần rà soát lại hành lang pháp lý, điều chỉnh các quy định sao cho phù hợp với thực tiễn. Những quy định nào chưa phù hợp cần được điều chỉnh kịp thời để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. 

Ngành ngân hàng cũng đã ban hành nhiều văn bản, thông tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn. Tuy nhiên, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải chuyển đổi nguồn vốn hiệu quả, tạo ra sự minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của mình.

Trong thời gian tới, một số luật sẽ được sửa đổi, bổ sung. Quá trình này có thể sẽ khiến một số doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn, thậm chí phá sản. Tuy nhiên, đây cũng sẽ là cơ hội để tập trung nguồn lực cho những doanh nghiệp có tiềm năng phát triển mạnh mẽ, qua đó tạo ra bước chuyển mình mới mẻ cho nền kinh tế Việt Nam.

Tôi cũng cho rằng, tăng trưởng kinh tế trong những năm tới sẽ phụ thuộc vào quá trình chuyển đổi số, tập trung vào huy động vốn và tổ chức lại hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận vốn, thông qua các phương án kinh doanh hiệu quả và các cơ hội thực tế. Đặc biệt, các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các địa phương cần được đẩy mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và dài hạn.

PV: Như ông đã nói, FDI là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vậy còn doanh nghiệp nội thì sao, ông đánh giá thế nào về vai trò và sứ mệnh khối doanh nghiệp này đối với việc gia năng năng lực nội sinh của Việt Nam? 

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Theo quan điểm của tôi, mục tiêu dài hạn là phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp nội địa, phải tạo nền tảng để các doanh nghiệp trong nước có thể phối hợp với FDI, đạt mức tăng trưởng hai con số. Mặc dù hiện tại, FDI đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu nhưng không thể chỉ dựa vào yếu tố này. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, việc phát triển các doanh nghiệp nội địa với năng lực cạnh tranh ngang tầm quốc tế là "chìa khóa" then chốt.

Tôi tin rằng, nếu doanh nghiệp trong nước có thể vươn lên mạnh mẽ, tương đương về quy mô và năng lực với các doanh nghiệp FDI, mục tiêu tăng trưởng hai con số sẽ hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, điều này không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc từ chính các doanh nghiệp nội địa. Để đạt được mục tiêu này, cần có một hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ và phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Chính phủ cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh các chính sách ưu đãi cho FDI cũng như doanh nghiệp nội địa để đảm bảo công bằng, tránh bất cập gây ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển.

Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước cũng cần chú trọng đến việc tiếp cận các chính sách tài khóa, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư công. Khi đầu tư công được thúc đẩy, nhu cầu gia tăng về vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi măng, gạch, ngói... sẽ mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, để hướng tới sự phát triển bền vững, cần đảm bảo tính minh bạch trong các hoạt động này, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng và đạt lợi nhuận.

Nếu để các doanh nghiệp FDI chiếm ưu thế trong việc sử dụng nguồn lực đầu tư công, sẽ gây ra sự lãng phí lớn cho nền kinh tế. Doanh nghiệp nội địa cần tận dụng và cần được tạo điều kiện để tận dụng các cơ hội này, từ đó gia tăng năng lực sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu. Bất động sản được đánh giá là một lĩnh vực quan trọng, nơi doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong thúc đẩy đầu tư. Dù vậy, không thể chỉ tập trung vào lĩnh vực đó mà cần đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, giúp nền kinh tế phục hồi và phát triển bền vững. Khi làm được như vậy, doanh nghiệp nội địa sẽ có thêm nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

Tóm lại, doanh nghiệp nội địa có sứ mệnh quan trọng không chỉ trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế, mà còn góp phần nâng cao sức cạnh tranh và đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

PV: Để phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP vượt mức 8% và phấn đấu lên 2 con số, năm 2025, Ngân hàng Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn là 16%. Ông nhận định thế nào về vấn đề này?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đề ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 đạt 16%, nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vượt mốc 8%, thậm chí phấn đấu lên 10%. Tuy nhiên, theo ước tính, trung bình mỗi 2% tăng trưởng tín dụng sẽ giúp tăng trưởng 1% GDP. Nghĩa là để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số, tăng trưởng tín dụng cần đạt mức 18 - 20%, tương ứng với việc năm nay ngành ngân hàng sẽ phải bơm thêm khoảng 2,8 - 3,1 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế.

Mức tăng trưởng tín dụng này có thể điều chỉnh linh hoạt tùy vào tình hình thực tế. Nếu lạm phát duy trì ở mức thấp, Ngân hàng Nhà nước có thể mở rộng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng. Ngược lại, trong trường hợp có dấu hiệu rủi ro, chính sách tín dụng sẽ được điều chỉnh để đảm bảo ổn định vĩ mô.

Mặc dù còn nhiều thách thức, nhưng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% được coi là tín hiệu tích cực, phản ánh quyết tâm của chính sách tiền tệ trong việc duy trì động lực tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động. Ngân hàng chỉ có thể tăng cường cho vay khi cầu tín dụng tăng trưởng. Năm 2024, ngành ngân hàng vẫn trong cảnh "đỏ mắt" tìm khách hàng. Chính vì vậy, trong năm 2025, khi nền kinh tế bứt tốc, dự báo cầu tín dụng sẽ tăng lên. Khi đó, mục tiêu tín dụng 18 - 20% sẽ không còn là áp lực mà sẽ trở thành cơ hội cho ngành ngân hàng.

Để đạt được mục tiêu này tăng trưởng tín dụng cũng như GDP, cần có sự đồng bộ giữa các giải pháp tiền tệ và tài khóa, đặc biệt là đẩy mạnh giải ngân gói tín dụng ưu đãi gần 200.000 tỷ đồng và cải cách thể chế, tháo gỡ những nút thắt trong thị trường bất động sản và các dự án đầu tư. Ngân hàng Nhà nước cũng tiếp tục đổi mới cơ chế cấp room tín dụng, giúp các ngân hàng xây dựng kế hoạch tăng tốc tín dụng từ đầu năm.

Tổng thể, việc đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% trong năm 2025 là khả thi và cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng cần có các biện pháp đồng bộ và linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và ổn định vĩ mô.

PV: Liệu lãi suất có thể giảm hơn nữa để hỗ trợ tăng trưởng không, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Theo tôi, việc giảm lãi suất không phải là vấn đề có thể giải quyết một cách đơn giản. Bởi theo cơ chế thị trường, lãi suất huy động đầu vào cao đồng nghĩa với lãi suất cho vay cũng phải tương ứng ở mức cao. Trong bối cảnh hiện nay, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao và đồng tiền mất giá, câu hỏi đặt ra là liệu lãi suất tiết kiệm của người dân đã được điều chỉnh hợp lý hay chưa? Chúng ta kỳ vọng giảm lãi suất, nhưng nếu không bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, liệu người dân có còn động lực gửi tiết kiệm? Nếu họ rút tiền, ngân hàng sẽ lấy đâu ra nguồn vốn để cho vay?

Vì vậy, vấn đề này cần được nhìn nhận toàn diện, không thể chỉ yêu cầu giảm lãi suất mà bỏ qua các yếu tố tác động khác. Để giảm lãi suất cho vay, các ngân hàng cần phải tiết kiệm chi phí hợp lý và cắt giảm các khoản phí không cần thiết. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động vốn đầu vào đã cao, việc giảm lãi suất cho vay là điều không khả thi. Ngược lại, nếu lãi suất huy động thấp, người dân sẽ không còn "mặn mà" gửi tiền, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng và không đủ khả năng cấp vốn tín dụng cho doanh nghiệp. Do đó, cần có sự điều chỉnh phù hợp giữa việc huy động nguồn lực từ người dân và bảo vệ quyền lợi, niềm tin của người gửi tiền.

Tôi cho rằng, lãi suất hiện nay đã gần đạt ngưỡng tối thiểu và khó có thể giảm thêm. Trong thời gian tới, khi nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng, nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh tăng lên, liệu lãi suất thấp có đủ khả năng huy động nguồn lực cho vay không? Rất có thể sẽ cần phải duy trì lãi suất cao hơn để thu hút người gửi tiền, từ đó tạo ra nguồn vốn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, các chính sách điều hành lãi suất cần phải được tính toán kỹ lưỡng, không thể chỉ đơn giản yêu cầu giảm lãi suất mà không xét đến các yếu tố tác động khác.

Lãi suất chỉ là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không chỉ đối mặt với chi phí lãi vay mà còn phải tính đến các khoản chi phí khác như chi phí sản xuất, thuế và các yếu tố bên ngoài. Việc giảm lãi suất không thể giải quyết vấn đề nếu doanh nghiệp không có phương án sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm hiệu quả. Nếu vay vốn với lãi suất thấp mà không thể sản xuất được, thì dù có nguồn vốn rẻ, doanh nghiệp cũng sẽ không thể phát triển.

Như vậy, việc giảm lãi suất không phải là giải pháp duy nhất để thúc đẩy nền kinh tế. Thực tế, khi nền kinh tế phát triển, lãi suất cần được điều chỉnh một cách hợp lý, để vừa hỗ trợ doanh nghiệp, vừa duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Mức lãi suất hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động bền vững, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, từ đó góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế.

Tóm lại, trong năm 2025, mức lãi suất khó có thể giảm mạnh. Khi lãi suất huy động cao, lãi suất cho vay cũng không thể thấp. Các ngân hàng hiện có hệ số an toàn vốn (CAR) lớn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến mức lãi suất cho vay. Nếu CAR thấp, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giảm lãi suất mà không phải đối mặt với rủi ro thua lỗ. Do đó, vấn đề lãi suất cần được xem xét kỹ lưỡng và không thể coi là yếu tố duy nhất quyết định sự phát triển của nền kinh tế.

PV: Có ý kiến cho rằng, tăng trưởng tín dụng đang phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực bất động sản. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Trong những năm qua, tín dụng đổ vào lĩnh vực bất động sản đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Báo cáo giám sát của Quốc hội cho thấy, trong giai đoạn 2015 - 2023, tín dụng bất động sản luôn ghi nhận sự gia tăng liên tục.

Cụ thể, trong giai đoạn 2015 - 2016, tín dụng bất động sản tăng trưởng 11% mỗi năm. Từ năm 2017, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu phân loại rõ ràng tín dụng bất động sản thành 2 nhóm gồm tín dụng kinh doanh bất động sản (cho vay đối với doanh nghiệp bất động sản) và tín dụng tiêu dùng bất động sản (cho vay cá nhân mua và sửa nhà). Trong giai đoạn từ 2017 - 2023, tín dụng kinh doanh bất động sản luôn có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là năm 2017 khi mức tăng trưởng lên đến 9,2%.

Đến cuối năm 2023, dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản đã đạt mức tăng trưởng 35,3%, chiếm 30% tổng dư nợ tín dụng bất động sản, trong khi tín dụng tiêu dùng chiếm hơn 70% phần còn lại. Mức tăng trưởng này vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế.

Trong những tháng đầu năm 2024, tín dụng bất động sản vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ. Tính đến cuối tháng 9/2024, dư nợ cho vay bất động sản đạt 3,15 triệu tỷ đồng, tăng 9,15% so với cuối năm trước, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế là 7,31%. Đây là minh chứng cho thấy, tín dụng bất động sản hiện chiếm gần 21,3% tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế.

Như vậy, tăng trưởng tín dụng hiện nay thực sự có sự phụ thuộc lớn vào lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản có sự biến động mạnh, có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tín dụng và nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, việc giảm sự phụ thuộc vào tín dụng bất động sản, đồng thời phát triển các lĩnh vực tín dụng khác, sẽ là yếu tố quan trọng giúp đảm bảo sự ổn định và bền vững cho hệ thống tín dụng và nền kinh tế.

Doanh nghiệp nội địa là "bệ phóng" thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững- Ảnh 5.

Tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào lĩnh vực bất động sản sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản có sự biến động mạnh, có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tín dụng và nền kinh tế nói chung. (Ảnh minh hoạ)

PV: Cụ thể, những rủi ro đó là gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Việc tín dụng bất động sản tăng cao đã gây ra không ít lo ngại về rủi ro đối với hệ thống ngân hàng. Tôi cho rằng, ngay cả khi thị trường bất động sản có thanh khoản tốt, những rủi ro vẫn hiện hữu, bởi phần lớn nguồn vốn của các ngân hàng thương mại là ngắn hạn, trong khi các khoản vay bất động sản lại có thời hạn rất dài, có thể kéo dài trên 20 năm. Điều này dễ dẫn đến các rủi ro thanh khoản và lãi suất.

Chưa hết, sự gia tăng tín dụng cho lĩnh vực kinh doanh bất động sản cũng đồng nghĩa với việc rủi ro tập trung vào một lĩnh vực, thay vì phân tán như các khoản cho vay bất động sản tiêu dùng. Tín dụng bất động sản tiêu dùng đã có dấu hiệu giảm tốc trong khi tín dụng dành cho các chủ đầu tư lại tăng nhanh, điều này tạo ra sự lệch pha giữa cung và cầu. Hơn nữa, tình trạng đầu cơ bất động sản vẫn tiếp diễn, nhiều cá nhân dù đã sở hữu 5 - 7 căn nhà nhưng vẫn tiếp tục đầu tư thêm. Tình trạng này không chỉ làm tăng nguy cơ rủi ro cho nền kinh tế mà còn gây khó khăn cho những người tiêu dùng thực sự có nhu cầu nhà ở.

Đặc biệt, rủi ro càng lớn hơn khi mà hiện thị trường bất động sản đang tồn tại nhiều bất cập. Hiện nay, đa phần các sản phẩm bất động sản được cung cấp ra thị trường đều thuộc phân khúc bất động sản cao cấp, giá bất động sản tăng nhanh vượt quá thu nhập, khả năng chi trả của đại bộ phận người dân. Điều đó dẫn tới thanh khoản của thị trường thấp, kéo theo đó là vấn đề dòng tiền của các doanh nghiệp bất động sản.

PV: Từ đó, xin ông đưa ra hướng đi, giải pháp để có thể giải quyết tình trạng trên?

TS. Nguyễn Quốc Hùng: Để "chặn" những rủi ro trên, tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể. Trước tiên, cần tập trung nguồn vốn vào các doanh nghiệp có dự án phát triển trực tiếp, nhằm tạo ra sản phẩm mới, thay vì chỉ hỗ trợ các đơn vị mua bán bất động sản.

Đồng thời, cần rà soát kỹ lưỡng các cá nhân sở hữu nhiều bất động sản để xác định liệu họ có nhu cầu thực sự hay chỉ đang tham gia vào hoạt động đầu cơ. Những đối tượng này cần được đánh giá rõ ràng về mức độ rủi ro. Không thể đơn giản coi mọi khoản vay bất động sản là vay tiêu dùng, bởi điều này sẽ làm gia tăng rủi ro cho hệ thống tài chính.

Một trong những "liều thuốc" để điều tiết là thuế. Cùng với đó, xem xét điều chỉnh lãi suất đối với các khoản vay mua nhà thứ hai, thứ ba. Với mức lãi suất có thể lên đến 30%, liệu người đầu cơ có còn tiếp tục duy trì giao dịch mua thêm bất động sản hay không? Điều này sẽ giúp giảm thiểu tình trạng đầu cơ, từ đó giảm áp lực lên giá nhà, mở ra cơ hội cho những người thực sự có nhu cầu mua nhà để ở.

Không thể đơn giản coi mọi khoản vay bất động sản là vay tiêu dùng, bởi điều này sẽ làm gia tăng rủi ro cho hệ thống tài chính.
Doanh nghiệp nội địa là "bệ phóng" thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững- Ảnh 6.TS. Nguyễn Quốc Hùng

Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ giám sát và thanh tra việc áp dụng tỷ lệ an toàn tín dụng của các ngân hàng. Càng đầu tư nhiều vào bất động sản, tỷ lệ rủi ro càng cao, làm giảm hệ số CAR của ngân hàng. Vì vậy, cần có các biện pháp kiểm soát và xử lý nghiêm minh nếu có vi phạm. 

Ngoài ra, hiện Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng điều chỉnh dư nợ tín dụng mà không cần phải xin phê duyệt. Dù vậy, các ngân hàng vẫn phải tự đảm bảo hệ số an toàn tín dụng. Nếu tỷ lệ nợ xấu tăng, các ngân hàng sẽ phải kiểm soát chặt chẽ để tránh rủi ro mất ổn định hệ thống tín dụng./.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top