Đó là quan điểm được các chuyên gia nêu lên tại Tọa đàm "Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68", ngày 27/6.
Tiếp cận vốn luôn là khó khăn hàng đầu mà doanh nghiệp tư nhân phản ánh
Tại Tọa đàm, nhiều chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đều khẳng định, Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại đã rất nỗ lực đáp ứng nhu cầu vốn của khu vực kinh tế tư nhân, tuy nhiên tiếp cận vốn tín dụng vẫn là một trong những rào cản lớn nhất đối với khu vực này.
Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) nhìn nhận, các tổ chức tín dụng là "bà đỡ" của nền kinh tế, trong đó có thị trường bất động sản. Bởi vì sau khi doanh nghiệp tạo lập được quỹ đất, thì cần nguồn vốn để đầu tư xây dựng triển khai dự án. Khi chưa xây dựng xong hạ tầng thì doanh nghiệp chưa thể huy động vốn từ khách hàng.
"Các tổ chức tín dụng đóng vai trò cực kỳ quan trọng bởi ở Việt Nam hiện nay, các quỹ đầu tư tài chính còn chậm phát triển. Quỹ đầu tư tài chính của ngân hàng chỉ có quỹ của Techcombank. Thị trường vốn của chúng ta rất thiếu", Chủ tịch HoREA nói.

Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước). (Ảnh: VGP/Dương Tuấn)
Chia sẻ về nỗ lực đồng hành của các ngân hàng đối với cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế, ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, Nghị quyết 68 được Bộ Chính trị ban hành đã tạo ra dấu ấn quan trọng đối với cả nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Đặc biệt, Nghị quyết 68 đã tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân tiếp cận đa dạng nguồn vốn.
Tính đến ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024, tăng 18,71% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024, dư nợ tín dụng tăng 3,87% so với tháng 12/2023).
"Có đến 100 tổ chức tín dụng đã phát sinh tỷ lệ dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Trong đó, có khoảng 209.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có phát sinh dư nợ tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Điều này khẳng định dòng vốn tín dụng đã lan tỏa đến mọi phân khúc của các doanh nghiệp, mọi phân khúc của nền kinh tế", ông Lân nói.
Đồng thời, ngành ngân hàng đã có những chính sách đồng hành thiết thực như cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi suất, hỗ trợ phục hồi sau đại dịch và thiên tai. Các ngân hàng cũng không ngừng đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, số hóa quy trình cho vay, rút ngắn thủ tục và giảm chi phí tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân.

TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Tuy nhiên ở chiều ngược lại, TS. Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) dẫn kết quả các lần khảo sát doanh nghiệp trong hơn 20 năm qua và cho biết: “Khi hỏi doanh nghiệp rằng điều gì là khó khăn nhất, thì việc khó tiếp cận vốn luôn là khó khăn hàng đầu, cùng với những vấn đề về thủ tục hành chính, về đất đai.
Phân tích thêm, ông Tuấn cho rằng, vai trò của tín dụng giống như xăng đối với xe chạy xăng. Nếu không có xăng thì xe không chạy được và nếu giá xăng quá cao thì hiệu quả vận hành và kinh tế không cao. Có nghĩa là, nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì không thể đi được xa. Vì vậy các chính sách cung ứng vốn cho nền kinh tế rất quan trọng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam đủ khả năng và trình độ công nghệ để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nhưng do bất lợi về dòng vốn nên mới khó phát triển. So sánh với các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) - có thể tiếp cận được với những nguồn vốn chi phí thấp, rẻ, dài hạn, có thể lãi suất chỉ 2 - 3%/năm, thì doanh nghiệp Việt đang kém lợi thế.
"Doanh nghiệp Việt Nam vay vốn ngân hàng với lãi suất cao và đầu tư dài hạn thì về mặt bài toán kinh tế không khả thi, không hiệu quả. Chi phí vốn quyết định chi phí kinh doanh, hiệu quả đầu tư rất lớn", Phó Tổng thư ký VCCI khẳng định.
Đặc biệt là khả năng tiếp cận vốn tín dụng của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận hệ thống ngân hàng chính thức. Không ít trường hợp buộc phải tìm đến các nguồn vốn phi chính thức như người thân, bạn bè hoặc thậm chí là "tín dụng đen", tiềm ẩn nhiều rủi ro cả về tài chính lẫn pháp lý.
Bên cạnh thiếu vốn, lãi cao, doanh nghiệp còn gặp khó khăn về quy định pháp luật. Theo TS. Đậu Anh Tuấn, Luật Tổ chức tín dụng vừa sửa đổi năm 2024, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong giải quyết nợ xấu. Cho nên Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức tín dụng (sửa đổi) trong kỳ họp thứ 9 này. Tuy nhiên, vẫn phải chờ đợi một thời gian dài, thậm chí là vài năm mới có hành lang pháp lý mới cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, để đầu tư dài hạn, các quốc gia không dựa vào hệ thống ngân hàng, mà huy động vốn từ trái phiếu, thị trường chứng khoán. Nhưng tại nước ta, những mảng thị trường này chưa phát triển đúng với kỳ vọng và nhu cầu của nền kinh tế. Tất cả đang dồn lên "trụ cột chống đỡ" là các ngân hàng. Do đó, tín dụng vẫn là bài toán thách thức đối với doanh nghiệp và nền kinh tế trong thời gian tới, theo ông Tuấn.
Cơ hội bứt phá nếu doanh nghiệp đủ bản lĩnh và minh bạch
Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước) nhấn mạnh, tín dụng không thể là con đường một chiều, chính bản thân doanh nghiệp cần nâng cao khả năng đáp ứng yêu cầu của hệ thống ngân hàng.
"Nghị quyết 68 đã khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân xây dựng hệ sinh thái tài chính minh bạch. Phải đảm bảo tính minh bạch, lành mạnh, nâng cao năng lực quản trị, nhất là năng lực quản trị tài chính đối với các ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao trách nhiệm cho Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành thanh tra, kiểm tra đối với các vấn đề liên quan đến cho vay, đảm bảo dòng vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng mục tiêu cho vay, tránh trường hợp dòng tiền chảy vào các lĩnh vực rủi ro, gây bất ổn cho nền kinh tế", ông Lân nói.
Đồng quan điểm, TS. Đậu Anh Tuấn cho biết, nguồn vốn là hữu hạn, nên phải hướng vốn vào những hoạt động tạo ra lợi thế, cạnh tranh nhất và hiệu ứng đối với xã hội tốt nhất. Đó là khu vực sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ cụ thể; hay những nơi tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao động, giải quyết nhiều vấn đề an sinh xã hội.
Bên cạnh đó, ông Tuấn cũng nhấn mạnh, thay vì siết chặt theo hướng an toàn tuyệt đối, cần cho phép ngân hàng chủ động quản trị rủi ro trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, linh hoạt hơn. Đơn cử, việc cho vay theo dòng tiền mà Nghị quyết 68 đã đặt ra, luôn tiềm ẩn rủi ro. Do đó, việc cho phép ngân hàng chủ động quản trị rủi ro sẽ tạo điều kiện để tín dụng tiếp cận được các doanh nghiệp có dòng tiền tốt, uy tín pháp lý rõ ràng và tiềm năng tăng trưởng, ngay cả khi chưa có tài sản bảo đảm.

Ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM. (Ảnh: VGP/Dương Tuấn)
Từ góc độ đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM đồng tình, doanh nghiệp phải đảm bảo được an toàn pháp lý, tài chính - tín dụng và an toàn quản trị.
"Có những doanh nghiệp yếu về năng lực, thậm chí đầu tư quá mức, đầu tư dàn trải nhiều dự án, không sử dụng vốn đúng mục đích… Điều đó cũng gây rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng đóng vai trò "bà đỡ" thì ngược lại, các doanh nghiệp cũng phải cùng đóng vai trò bảo đảm an toàn cho cả hệ thống", Chủ tịch HoREA chia sẻ.
Song song đó, ông Châu nhấn mạnh vai trò chủ động tái cấu trúc đầu tư, không dàn trải, chuyển hướng vào các phân khúc có nhu cầu thực như nhà ở xã hội. Đây vừa là hướng đi thực tế, vừa là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp được tiếp cận các gói tín dụng ưu tiên đang được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước thúc đẩy./.