Một số điểm mới và tác động của Nghị quyết tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai
Nghị quyết có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, riêng quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điểm b khoản 3 Điều 12 được áp dụng ngay từ thời điểm thông qua. Việc ban hành Nghị quyết nhằm cụ thể hóa kịp thời các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách đất đai; đồng thời giải quyết những “điểm nghẽn” và yêu cầu mới phát sinh trong thực tiễn để bảo đảm công tác quản lý đất đai được thông suốt và đáp ứng bối cảnh phát triển mới.
Dưới đây là một số điểm mới quan trọng và những tác động chính của Nghị quyết.
(1) Bổ sung các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết đã bổ sung 3 nhóm dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng gồm: (i) Các dự án trong khu thương mại tự do, dự án trong khu trung tâm tài chính quốc tế; (ii) Dự án thuộc trường hợp thỏa thuận về nhận QSDĐ mà nhà đầu tư đã thỏa thuận được trên 75% diện tích và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì HĐND cấp tỉnh thông qua việc thu hồi phần diện tích còn lại; (iii) Thu hồi đất để tạo quỹ đất thanh toán cho dự án BT (dự án đối ứng), hoặc để bố trí đất thuê để tiếp tục sản xuất, kinh doanh khi doanh nghiệp bị thu hồi đất.
Quy định này giúp tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các dự án thương mại quy mô lớn; tăng tính khả thi cho các dự án phải thỏa thuận với nhiều hộ dân nhờ cơ chế hỗ trợ khi đạt mức đồng thuận cao; tháo gỡ vướng mắc đối với dự án BT và doanh nghiệp cần được bố trí lại đất để duy trì hoạt động khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, phạm vi mở rộng cũng đòi hỏi tăng cường minh bạch, đánh giá tác động xã hội và kiểm soát rủi ro lạm dụng.
(2) Cho phép thu hồi đất trước khi phê duyệt phương án bồi thường trong một số trường hợp
Theo Luật Đất đai 2024, chỉ được thu hồi đất sau khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt. Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết cho phép mở ngoại lệ trong các trường hợp sau: (i) Thu hồi đất mà phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (phương án BTHTTĐC) không phải tái định cư với dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp; với các dự án nếu được trên 75% người sử dụng đất đồng ý thu hồi trước khi phê duyệt phương án BTHTTĐC hoặc (ii) thu hồi đất trước khi hoàn thành việc bố trí tái định cư với dự án đầu tư công khẩn cấp, dự án tái định cư tại chỗ mà việc bố trí tái định cư theo tuyến công trình chính. UBND cấp tỉnh quy định việc bố trí tạm cư, thời gian tạm cư với trường hợp thu hồi đất trước khi hoàn thành tái định cư.
Quy định này tạo sự linh hoạt, rút ngắn thời gian chuẩn bị thu hồi đất trong trường hợp cấp bách hoặc khi có sự đồng thuận cao của người dân. Đồng thời vẫn có cơ chế tạm cư để bảo đảm quyền lợi người bị thu hồi đất.
(3) Thay đổi cách tính giá đất để bồi thường và giá đất tái định cư
Khoản 6 Điều 3 và khoản 3 Điều 5 Nghị quyết quy định giá đất để tính bồi thường và giá đất tính tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư được xác định theo công thức: Giá trong bảng giá đất × Hệ số điều chỉnh giá đất (hệ số K).
Trước đây, Luật Đất đai 2024 quy định: Giá bồi thường = giá đất cụ thể; Giá đất tính tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư = bảng giá đất (không có hệ số K).
Việc chuyển từ giá đất cụ thể sang giá đất theo bảng giá × hệ số K trong một số trường hợp có thể khiến mức bồi thường thấp hơn so với phương pháp giá đất cụ thể trước đây. Ngược lại, giá đất tái định cư có thể cao hơn do phải áp dụng hệ số K. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ bổ sung để bảo đảm quyền lợi của người bị thu hồi đất và hạn chế khiếu nại.
(4) Rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục thu hồi đất
Khoản 9, Điều 3 Nghị quyết rút ngắn một số thời hạn thủ tục thu hồi đất, gồm:
Thông báo thu hồi đất: 120 ngày đối với đất phi nông nghiệp (trước đây 180 ngày); 60 ngày đối với đất nông nghiệp (trước đây 90 ngày).
Niêm yết phương án bồi thường: 10 ngày (trước đây 30 ngày).
Thời hạn tổ chức đối thoại khi người dân không đồng ý phương án bồi thường: Không quá 30 ngày (trước 60 ngày).
Việc rút ngắn thời hạn trên giảm đáng kể thời gian xử lý thủ tục hành chính, giúp đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư.
(5) Mở rộng thẩm quyền của Chính phủ quy định các trường hợp không được bồi thường về đất
Khoản 10 Điều 3 Nghị quyết giao Chính phủ quy định thêm các trường hợp không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Trước đây, các trường hợp này phải được quy định trong Luật Đất đai.
Thực tế, nhiều trường hợp chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận do vướng mắc như quy hoạch, tranh chấp, chưa xác định được nguồn gốc đất… Việc giao Chính phủ quy định chi tiết giúp xử lý linh hoạt và sát thực tiễn hơn.
(6) Quy định mới về các biện pháp hỗ trợ khác
Khoản 12 Điều 3 Nghị quyết quy định: UBND cấp tỉnh ban hành biện pháp, mức hỗ trợ khác để bảo đảm chỗ ở, ổn định đời sống người bị thu hồi đất. UBND cấp xã quyết định mức hỗ trợ cụ thể theo từng dự án.
Tác động: Các biện pháp hỗ trợ linh hoạt giúp bù đắp bất cập khi giá bồi thường theo bảng giá đất thường thấp hơn giá thị trường hoặc giá đất cụ thể trước đây. Từ đó hạn chế khiếu nại và bảo đảm an sinh người bị thu hồi đất.
(1) Cho phép người sử dụng đất linh hoạt lựa chọn hình thức thuê đất
Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết cho phép người sử dụng đất (trừ đơn vị sự nghiệp công lập hoặc đang thuê đất trả tiền hàng năm quỹ đất do cơ quan Nhà nước quản lý) được lựa chọn trả tiền thuê đất hằng năm hoặc một lần cho cả thời gian thuê. Quy định này áp dụng cả với dự án đã được thuê đất trước thời điểm Nghị quyết có hiệu lực, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp lựa chọn phương án tài chính phù hợp.
(2) Đơn giản hóa trình tự giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Khoản 3 Điều 4 Nghị quyết không yêu cầu phải có nghị quyết của HĐND tỉnh trước khi UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đất rừng.
Tác động giúp giảm thủ tục, rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án, cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư.
(3) Bổ sung trường hợp giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá, đấu thầu
Khoản 4 Điều 4 Nghị quyết bổ sung ba trường hợp gồm: (i) Giao quỹ đất dùng để thanh toán cho dự án BT; (ii) giao đất, cho thuê đất cho dự án phát triển kinh tế không dùng vốn đầu tư công nhưng đã lựa chọn được nhà đầu tư và (iii) Dự án năng lượng, du lịch gắn với thương mại dịch vụ tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Tác động quan trọng là rút ngắn thủ tục lựa chọn nhà đầu tư, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án.
Nghị quyết bổ sung trường hợp giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá, đấu thầu. (Ảnh: Trọng Hiếu/Reatimes)
(4) Nới lỏng điều kiện về quy hoạch để đấu giá, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư
Khoản 5 và khoản 6 Điều 4 Nghị quyết, quy định điều kiện về quy hoạch để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án nhà ở, dự án khu đô thị chỉ cần đáp ứng một trong các loại quy hoạch sau: Quy hoạch chung, quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết.
Điều này khác với Luật Đất đai 2024, vốn yêu cầu đấu giá dự án nhà ở phải có quy hoạch chi tiết 1/500; Đấu thầu dự án có sử dụng đất phải có quy hoạch phân khu 1/2000 hoặc quy hoạch chi tiết.
Quy định mới giới hạn yêu cầu về quy hoạch chỉ đối với các dự án nhà ở, khu đô thị, khu dân cư nông thôn, thay vì áp dụng cho dự án sử dụng đất như trước đây. Việc cho phép sử dụng một trong ba cấp độ quy hoạch (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chi tiết) đã nới lỏng đáng kể điều kiện, tạo sự linh hoạt trong công tác chuẩn bị đầu tư. Nhờ vậy, quá trình triển khai đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trở nên nhanh hơn, phù hợp hơn với thực tế nhiều địa phương đang thiếu quy hoạch chi tiết ở quy mô 1/500 hoặc 1/2000.
(5) Cho phép điều chỉnh thời hạn sử dụng đất
Khoản 7 Điều 4 Nghị quyết cho phép điều chỉnh thời hạn sử dụng đất cho: Nhà đầu tư mới thay thế nhà đầu tư cũ đã giải thể, phá sản; Nhà đầu tư nhận chuyển nhượng dự án có sử dụng đất; Nhà đầu tư phải nộp bổ sung tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất tương ứng thời hạn điều chỉnh.
Ví dụ, năm 2000, một dự án được UBND cấp tỉnh cho thuê đất thương mại, dịch vụ trong thời hạn 50 năm, trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Như vậy, thời hạn sử dụng đất của dự án kéo dài đến năm 2050. Đến năm 2026, nhà đầu tư mới nhận chuyển nhượng lại dự án. Tại thời điểm này, thời hạn sử dụng đất còn lại chỉ là 24 năm (từ 2026 đến 2050). Nếu tiếp tục sử dụng theo thời hạn cũ, quỹ thời gian này sẽ không đủ để nhà đầu tư mới thu hồi vốn và triển khai kế hoạch đầu tư dài hạn. Theo quy định mới, nhà đầu tư nhận chuyển nhượng có quyền đề xuất điều chỉnh thời hạn của dự án đầu tư, ví dụ: đề xuất thời hạn thực hiện dự án là 50 năm kể từ năm 2026. Sau khi thời hạn dự án được điều chỉnh, nhà đầu tư sẽ tiếp tục đề nghị điều chỉnh thời hạn thuê đất để bảo đảm tương ứng với thời hạn của dự án đầu tư. Phần thời gian sử dụng đất tăng thêm so với mốc 2050 sẽ được tính tiền thuê đất bổ sung theo quy định.
Quy định mới sẽ tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm tiến độ do nguyên nhân khách quan; đặc biệt hữu ích cho doanh nghiệp nhận chuyển nhượng dự án bất động sản bán công trình kèm quyền sử dụng đất (như condotel, thương mại dịch vụ...) mà thời hạn sử dụng đất còn lại ngắn.
(6) Giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân
Theo Luật Đất đai 2024, khi chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở, người dân phải nộp 100% chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp. Điểm c khoản 2 Điều 10 của Nghị quyết đã tháo gỡ vấn đề này, thông qua quy định mức thu mới đối với hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất vườn, ao, đất nông nghiệp trong thửa đất có đất ở đã được xác định khi cấp Giấy chứng nhận, hoặc đất vườn, ao gắn liền với đất ở nhưng đã tách ra hoặc đo vẽ tách thành thửa riêng trước ngày 01/7/2014 khi chuyển các loại đất này sang đất ở.
50% chênh lệch đối với phần vượt hạn mức nhưng không quá 1 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương; 100% chênh lệch đối với phần vượt hạn mức trên 1 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương và đối với các trường hợp chuyển mục đích khác (đất nông nghiệp thuần túy, không có đất ở).
Nghị quyết giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân.
Cụ thể, khi chuyển các loại đất này sang đất ở, mức thu tiền sử dụng đất được tính như sau: 30% chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất nông nghiệp đối với phần diện tích chuyển mục đích trong hạn mức giao đất ở tại địa phương; 50% chênh lệch đối với phần vượt hạn mức nhưng không quá 1 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương; 100% chênh lệch đối với phần vượt hạn mức trên 1 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương và đối với các trường hợp chuyển mục đích khác (đất nông nghiệp thuần túy, không có đất ở). Mức thu giảm theo quy định này chỉ được áp dụng một lần cho mỗi hộ gia đình, cá nhân (tính trên một thửa đất).
Ngoài ra, khoản 10 Điều 4 Nghị quyết quy định cơ chế chuyển tiếp: Các trường hợp người dân đã chuyển mục đích theo nhóm quy định nêu trên từ ngày 1/8/2024 (ngày Luật Đất đai 2024 có hiệu lực) đến trước ngày Nghị quyết có hiệu lực (01/01/2026) sẽ được đề nghị Cơ quan thuế tính lại tiền sử dụng đất. Nếu số tiền tính lại thấp hơn số tiền đã nộp thì được khấu trừ vào nghĩa vụ tài chính khác (nếu có) hoặc được Nhà nước hoàn trả phần chênh lệch.
Đây là thay đổi quan trọng, không chỉ giúp giảm chi phí cho người dân khi chuyển mục đích sử dụng đất trong tương lai, mà còn tạo cơ chế hoàn trả hoặc khấu trừ cho những trường hợp đã chuyển mục đích trong giai đoạn từ 01/8/2024, nhưng đã phải nộp ở mức cao hơn trước đây. Quy định mới góp phần giảm gánh nặng tài chính, đồng thời bảo đảm sự công bằng và hợp lý về chính sách, thể hiện tính nhân văn trong việc xử lý các trường hợp đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính nhưng chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay.
(1) Mở rộng phạm vi áp dụng bảng giá đất
Theo Luật Đất đai 2024, bảng giá đất chủ yếu được sử dụng để tính nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với hộ gia đình, cá nhân, trong khi giá đất cụ thể để xác định nghĩa vụ tài chính về đất cho doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư (khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê).
Điều 7 Nghị quyết quy định Bảng giá đất sẽ được áp dụng rộng hơn, làm căn cứ xác định nghĩa vụ tài chính đối với tất cả các chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp) khi Nhà nước trao quyền sử dụng đất và trong các trường hợp khác phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai; ngoại trừ trường hợp giao đất, cho thuê đất hình thành do lấn biển, vì khu vực này không có bảng giá đất nên vẫn phải áp dụng phương pháp giá đất cụ thể.
Bảng giá đất được xây dựng theo loại đất, khu vực và vị trí, do HĐND cấp tỉnh ban hành và áp dụng từ ngày 01/01/2026, đồng thời có thể được sửa đổi, bổ sung khi cần thiết. Khoản 5 Điều 7 của Nghị quyết yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tại địa phương phải ban hành các căn cứ tính tiền sử dụng đất theo Nghị quyết này chậm nhất đến ngày 01/7/2026; trong thời gian chưa có đầy đủ căn cứ để áp dụng theo Nghị quyết, việc tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền bồi thường vẫn thực hiện theo Luật Đất đai 2024.
Việc mở rộng phạm vi áp dụng bảng giá đất (trừ trường hợp lấn biển) giúp đơn giản hóa việc tính toán, tăng tính thống nhất và thuận tiện khi áp dụng; đồng thời khắc phục những khó khăn, vướng mắc kéo dài trong việc xác định giá đất cụ thể. Nhờ đó, công tác xác định nghĩa vụ tài chính được đẩy nhanh, tạo điều kiện sớm đưa đất vào sử dụng và thúc đẩy tiến độ thực hiện các dự án.
(2) Đơn giản hóa cách tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
Điều 5 Nghị quyết quy định, căn cứ tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất bằng giá đất trong bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất (hệ số K); đồng thời có khấu trừ phần chi phí xây dựng hạ tầng theo pháp luật về xây dựng.
Việc chuyển sang áp dụng bảng giá đất kết hợp hệ số K, đồng thời tính thêm chi phí hạ tầng, giúp đơn giản hóa đáng kể phương pháp xác định nghĩa vụ tài chính, giảm sự phụ thuộc vào quy trình xác định giá đất cụ thể thường theo phương pháp thặng dư - kéo dài thời gian và dễ phát sinh chênh lệch. Tuy nhiên, việc bỏ quy định áp dụng giá đất cụ thể (được sử dụng liên tục từ năm 2006 đến nay) thay thế bằng bảng giá đất và hệ số K có thể làm giảm nguồn thu ngân sách từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đặc biệt đối với các dự án đầu tư có giá trị lớn.
(3) Khấu trừ chi phí bồi thường vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
Khoản 8 Điều 3 Nghị quyết quy định khoản tiền nhà đầu tư ứng trước cho bồi thường giải phóng mặt bằng được khấu trừ cho toàn bộ dự án và theo từng quyết định giao đất, cho thuê đất, thay vì khấu trừ theo từng loại diện tích như quy định tại Điều 16 Nghị định 103/2024/NĐ-CP trước đây.
Quy định này sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giúp giảm nghĩa vụ tài chính và quản lý tài chính dự án đơn giản và minh bạch hơn.
(1) Đơn giản điều kiện bán tài sản gắn liền với đất thuê trả tiền hằng năm
Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết quy định rằng, tài sản gắn liền với đất thuê trả tiền hằng năm được phép chuyển nhượng khi đáp ứng hai điều kiện: (i) Có giấy phép xây dựng (đối với trường hợp phải xin giấy phép) hoặc được tạo lập trên đất mà không vi phạm pháp luật về đất đai; và (ii) phù hợp với quy hoạch chi tiết 1/500 và dự án đầu tư đã được phê duyệt, trừ trường hợp việc chuyển nhượng thực hiện theo bản án, quyết định thi hành án hoặc kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm tra. Như vậy, so với Điều 46 Luật Đất đai 2024, quy định mới bỏ yêu cầu tài sản chuyển nhượng phải đáp ứng điều kiện “đã được đăng ký theo quy định của pháp luật”.
Quy định này giúp người sử dụng đất thuận lợi hơn khi chuyển nhượng tài sản, nhờ giảm bớt thủ tục về đăng ký. Đồng thời, việc nới lỏng điều kiện làm tăng tính linh hoạt trong giao dịch tài sản trên đất thuê, khuyến khích đầu tư, đặc biệt trong các khu công nghiệp, khu kinh tế, và giảm rủi ro pháp lý liên quan đến quy trình đăng ký tài sản.
(2) Nới lỏng tiêu chí, điều kiện tách thửa và hợp thửa đất
(i) Đối với tách thửa: Khoản 3 Điều 11 Nghị quyết quy định rõ, thửa đất được tách phải có lối đi kết nối với đường giao thông công cộng hoặc được người sử dụng đất liền kề đồng ý cho đi qua để kết nối với đường giao thông. Trong khi đó, Điều 220 Luật Đất đai 2024 chỉ nêu yêu cầu chung phải bảo đảm có lối đi; được kết nối với đường giao thông công cộng hiện có", không làm rõ khả năng sử dụng lối đi chung qua thửa đất liền kề. Vì vậy, Nghị quyết đã bổ sung và cụ thể hóa, cho phép dùng lối đi chung nếu được chủ sử dụng đất liền kề đồng ý.
Ngoài ra, Nghị quyết quy định khi chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất thì không bắt buộc phải tách thửa. So với Luật Đất đai 2024 vốn về nguyên tắc yêu cầu tách thửa khi chuyển mục đích một phần thửa đất, trừ một số trường hợp đặc biệt (như thửa có đất ở và đất khác), quy định tại Nghị quyết là nới lỏng và rộng hơn, giảm bớt yêu cầu tách thửa trong thực tế.
(ii) Đối với hợp thửa: Nghị quyết cho phép hợp thửa mà không bắt buộc các thửa phải cùng mục đích sử dụng đất, cùng hình thức trả tiền thuê đất hoặc cùng thời hạn sử dụng đất. Điều này khác với quy định tại Luật Đất đai 2024, theo đó ba tiêu chí trên phải thống nhất thì mới được hợp thửa, trừ một số ngoại lệ hạn chế. Nghị quyết vì vậy mang tính linh hoạt hơn.
Quy định mới giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí cho người dân. Nhìn chung, các điều chỉnh này tăng tính linh hoạt trong sử dụng đất, phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của người dân.
(3) Bãi bỏ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã và cấp huyện (theo mô hình cũ)
Liên quan đến thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Khoản 3 Điều 12 Nghị quyết quy định các địa phương sẽ không lập Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2026 - 2030 của thành phố trực thuộc Trung ương; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện và Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã.
Như vậy, khi bãi bỏ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã và cấp huyện (theo mô hình cũ), việc quản lý đất đai trong thời gian tới sẽ chủ yếu dựa trên chỉ tiêu quy hoạch cấp tỉnh phân bổ xuống cấp xã, cùng với quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn. Quy định này thể hiện định hướng khuyến khích và ưu tiên lập quy hoạch theo pháp luật về đô thị và nông thôn, đồng thời cắt giảm thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ, giúp các địa phương tinh gọn quy trình và tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ tiếp cận đất đai cho doanh nghiệp. Riêng quy định liên quan đến việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất có hiệu lực ngay từ ngày 11/12/2025.
Ngoài ra, Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai có thêm một số quy định mới khác như:
Giao Chính phủ quy định thêm các trường hợp sử dụng đất đa mục đích, sẽ giúp đảm bảo hệ thống pháp luật linh hoạt, thích ứng với mô hình kinh tế mới.
Đơn giản hóa thủ tục đầu tư dự án lấn biển, không còn yêu cầu Quốc hội hoặc Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư; đảm bảo thống nhất pháp luật đầu tư - đất đai; rút ngắn quy trình xét duyệt.
Có thể nói Nghị quyết được Quốc hội ban hành không chỉ mang tính “kỹ thuật” để kịp thời bảo đảm Luật Đất đai 2024 thực thi hiệu quả, mà còn là bước điều chỉnh chính sách quan trọng, tác động trực tiếp tới người sử dụng đất, nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Các quy định mới nếu được triển khai đồng bộ, minh bạch, sẽ góp phần khơi thông nguồn lực đất đai cho phát triển, đồng thời vẫn phải bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp./.




