Rau khúc nếp
Mùa đông, ao cạn nước, bèo cái bèo tây đều lụi hết. Khoai lang cũng đã thu hoạch xong. Thức ăn của lợn phải đi kiếm từ rau dại. Đủ thứ rau láo nháo mọc hoang, nhưng nhiều nhất là rau dền, rau sam, rau tầm bóp và rau khúc.
Các cánh đồng màu mùa đông bỏ hoang cho đất hồi. Rau dại tha hồ mọc tưng bừng, miên man. Mẹ giao cho Cò Bé mỗi ngày một rổ rau lợn. Đám Cu Ti, Cò Bạch, Tý Nhớn thường ra đồng hái rau lợn giúp Cò Bé để xong sớm cùng nhau đi chơi.
Đất đồng màu mỡ, rau dại mọc ngút ngàn. Ngày nào cũng chỉ một loáng lũ trẻ đã hái đầy một rổ rau lớn. Rau mập mạp, xanh mướt, mỡ màng, non bấy, trông thật ngon mắt.
Khi thái rau, mẹ gọi Cò Bé đến dặn, rau khúc có hai loại. Rau khúc nếp thì màu trắng bạc, thơm dẻo, vốn để làm bánh khúc, nhưng thân cành xơ cứng, đun mãi không nhừ, lợn không thích. Rau khúc tẻ thân lá to, đầy đặn, non mềm, đun nhanh chín nhuyễn, lợn rất thích ăn.
Chắc là lợn không ưa mùi thơm nên không thích rau khúc nếp. Bánh khúc chắc lợn cũng chả báu gì. Từ đó gặp rau khúc nếp, Cò Bè không hái nữa. Rau khúc nếp ngằn ngặt mọc từng vạt, bạt ngàn, hoang hoải li ti hoa vàng, ngơ ngác.
Khoai lang
Sáu giờ sáng, mẹ gọi Cò Bé dậy đi học. Sáng nào mẹ cũng dậy trước, xuống bếp hâm lại cơm nguội để nó ăn. Vì hôm nào đi học về đến nhà cũng đã trưa. Không cho chút gì vào bụng thì trưa đói vàng mắt.
Bao năm chả nghĩ gì về sự tần tảo của mẹ. Cò Bé chỉ nhớ mùi khoai lang khô nồng nặc, vị khoai rím đắng ngắt. Thật lòng nó rất sợ ăn cơm độn khoai rím khô. Nhưng không ăn thì trưa làm sao lê bước về nhà được.
Cái mùi nồng nặc của khoai rím khô. Cái vị đắng ngắt của khoai sâu khô Cò Bé cứ nhớ mãi.
Sao nó chả bao giờ nhớ gì tới sự tần tảo sáng nào cũng dậy sớm hâm lại cơm nguội cho nó ăn của mẹ.
Trà bồm
Cả nhà ăn cơm xong. Sau khi anh Cò To bê mâm bát đi rửa. Cò Bé cuốn chiếu và lấy chổi quét nhà.
Tiện tay nó lùa chổi vào gầm giường. Vô tình động vào con mèo. Mèo con giật mình tưởng bị đánh, gào lên thảm thiết, bỏ chạy.
Con mèo cuống cuồng phi lên bàn nước. Hai chân sau đạp loạn xạ làm văng gói trà của thầy xuống đất. Gói trà bằng giấy báo vỡ tung. Trà bay tung toé khắp mặt đất.
Thầy đứng bên bàn nước, mặt tái đi. Cò Bé sợ hết hồn, đứng như trời trồng. Một thoáng, thầy ngồi xổm, lựa tay nhúm ít trà phía trên chưa chạm đất, cho vào ấm.
Rồi thầy cầm chổi từ tay Cò Bé quét đám trà vun thành đống. Sau khi xúc trà vào chiếc mo cau, thầy ôn tồn bảo Cò Bé mang đổ ra vườn.
Quét nhà xong, Cò Bé lủi ra ngoài vườn. Nó bỗng run lên sợ hãi. Mắt nó cứ chập chờn hình ảnh khuôn mặt tái dại của thầy và những vụn trà bồm vương vãi tung tóe mặt đất.
Sau này Cò Bé mới biết trà bồm là thứ trà cám thải loại, vụn nát, hạ đẳng, chỉ những người nghèo khổ lỡ mắc nghiện trà mới uống./.