Aa

TS. Lê Duy Bình: Cẩn trọng với tâm lý coi tín dụng là “chìa khóa“ của tăng trưởng kinh tế

Thuý Quỳnh
Thuý Quỳnh quynhbui.reatimes@gmail.com
Thứ Hai, 07/08/2023 - 06:00

Cũng theo TS. Lê Duy Bình, gia tăng tín dụng cho nền kinh tế nên ở liều lượng phù hợp với năng lực hấp thụ để kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, tránh rủi ro và hệ lụy sau này.

Kết thúc 6 tháng đầu năm 2023, dư nợ tín dụng mới chỉ tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần giảm lãi suất điều hành trong 6 tháng qua, nhưng dòng vốn tín dụng trong nền kinh tế vẫn không được khơi thông do năng lực hấp thụ còn hạn chế. Trong khi đó, bức tranh kinh tế vĩ mô ngày càng cho thấy những khó khăn thường trực. Tính đến hết 7 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp giảm 0,7%, tổng kim ngạch xuất khẩu giảm 10,6% trong khi nhập khẩu giảm 17,1%. 

Ngay lúc này, bài toán nên hay không nên tiếp tục hạ lãi suất để gia tăng tín dụng, kích cầu kinh tế sớm phục hồi trở lại càng cần phải tìm thấy hướng ra. Nhưng khi vấn đề nằm ở nguồn cầu, năng lực hấp thụ vốn và nhu cầu tín dụng của người dân, doanh nghiệp, thì việc tiếp tục mở rộng nguồn cung tín dụng bằng cách hạ lãi suất sẽ khiến nền kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn nữa. 

Rủi ro khi “lạm dụng” vốn tín dụng để kích thích tăng trưởng kinh tế

Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, tăng trưởng tín dụng bằng biện pháp giảm lãi suất trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều ràng buộc. Việc tiếp tục hạ lãi suất để đưa giá tín dụng xuống thấp hơn nữa sẽ gặp những trở ngại như rủi ro như lạm phát vẫn chực chờ, tác động đối với tỷ giá hối đoái khi lãi suất của đồng USD và tại nhiều nền kinh tế lớn khác vẫn chưa giảm hoặc thậm chí vẫn có khả năng tiếp tục tăng.

Ngày 26/7, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã tăng lãi suất lên 0,25 điểm phần trăm, đạt phạm vi mục tiêu là 5,25% - 5,5%, đưa lãi suất lên mức cao nhất trong 22 năm. Tuy có nhiều dự đoán tháng 9 tới đây FED sẽ tạm dừng chính sách thắt chặt tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chủ tịch FED Jerome Powell cho biết, lạm phát đã hạ nhiệt kể từ giữa năm ngoái, nhưng “vẫn còn một chặng đường dài” mới có thể đạt được mục tiêu 2% của FED.

Ngay sau đó, ngày 27/7, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng đã nâng lãi suất tiền gửi thêm 0,25 điểm phần trăm lên 3,75%, mức cao nhất trong 23 năm qua để kiểm soát lạm phát dai dẳng. Ngân hàng Trung ương Nga cũng đã lần đầu tiên tăng lãi suất lên mức 5 - 6,5% sau hơn một năm duy trì chính sách nới lỏng. 

Bên cạnh đó, TS. Lê Duy Bình cũng cho rằng, vấn đề của nền kinh tế Việt Nam hiện nay nằm nhiều ở tổng cầu. Ngoại trừ tiêu dùng trong nước, đầu tư, chi tiêu chính phủ đặc biệt thông qua đầu tư công là những yếu tố chúng ta có thể tác động và phần nào kiểm soát được, thì hoạt động xuất - nhập khẩu hiện phụ thuộc rất nhiều vào sự phục hồi của các nền kinh tế lớn nhập khẩu hàng hoá dịch vụ từ Việt Nam. 

Cho đến nay, sự hồi phục của thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ Việt Nam chưa có những dấu hiệu tích cực một cách rõ nét, nhất là khi những nền kinh tế lớn, là đối tác chủ chốt của nước ta vẫn đang duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong bối cảnh đó, việc gia tăng tín dụng để doanh nghiệp hay các cơ sở kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi tổng cầu không không đảm bảo hấp thụ được chắc chắn chứa đựng nhiều rủi ro đối với chính doanh nghiệp và kế đó là đối với chất lượng tín dụng. 

Thiếu đơn hàng, nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp giảm, dẫn đến tăng trưởng tín dụng cũng bị ảnh hưởng. (Ảnh minh họa: Cổng TTĐT Bộ Công Thương)

Trên thực tế, trong 6 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ nợ xấu đã có xu hướng tăng khiến các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng nợ xấu. Đơn cử, nợ xấu của VietinBank tính tới cuối tháng 6 ở mức 17.309 tỷ đồng, tăng 9,5% so với đầu năm, trong đó nợ nhóm 3 và nhóm 4 tăng khá mạnh, riêng nợ nhóm 5 giảm hơn 13,2%.Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay tăng lên mức 1,27% từ mức 1,24% vào cuối năm ngoái. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu ngân hàng ở mức 169%. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, VietinBank tăng trích dự phòng rủi ro đến 28% so với nửa đầu năm 2022. Tương tự, MSB cũng đã trích gần 903 tỷ đồng để dự phòng rủi ro tín dụng nửa đầu năm (cùng kỳ chỉ trích 56 tỷ đồng) do nợ xấu tăng. Tổng nợ xấu tính đến ngày 30/06/2023 của ngân hàng này là 3.496 tỷ đồng, tăng 69% so đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay tăng từ mức 1,71% lên 2,56%.

Tỷ lệ nợ xấu của 25 ngân hàng niêm yết đã tăng cao từ quý I/2023. (Nguồn: VNDirect)

Cùng với một số bất cập trong pháp lý về trách nhiệm của người vay, nếu tiếp tục tăng cung tín dụng khi hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp chưa được ổn định, chưa đảm bảo được khả năng hoàn vốn thì tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi còn có thể tiếp tục gia tăng. 

Hơn hết, tăng trưởng tín dụng không phải là, và cũng không nên là một dẫn chứng phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nói cách khác, một nền kinh tế tăng trưởng bền vững không nên phụ thuộc vào tăng trưởng tín dụng. Tỷ lệ tín dụng ngân hàng trên GDP của Việt Nam hiện nay là 125%, nằm trong số các nước có tỷ lệ này cao nhất trong ASEAN. Nhiều tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đã khuyến nghị Việt Nam không nên để mức tín dụng trên GDP ở mức quá cao do điều này có thể ảnh hưởng tới các chỉ số an toàn về kinh tế vĩ mô, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn và cũng như khiến nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn ngân hàng. 

Tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn gấp 2 hoặc gấp 3 tốc độ tăng trưởng GDP như trong những năm vừa qua và có thể trong năm nay và những năm tới đây sẽ khiến cho tỷ lệ này của Việt Nam sớm vượt qua mức 125%. Tỷ lệ quá cao như vậy rõ ràng không có lợi cho sự ổn định vững chắc và năng lực chống chọi cao của kinh tế vĩ mô.  

Tăng trưởng tín dụng nên chỉ ở liều lượng phù hợp với năng lực hấp thụ của nền kinh tế

Theo TS. Lê Duy Bình phân tích, tín dụng là đầu vào quan trọng cho nền kinh tế. Để kích thích tăng trưởng, các nền kinh tế tìm cách hạ lãi suất để kích thích tiêu dùng, kích thích đầu tư và từ đó kích thích tăng trưởng. Nhưng điều kiện để làm điều đó là phải dựa trên các nguyên tắc đảm bảo các chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng như chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá hối đoái được duy trì ổn định. Điều đó khả thi khi tổng cầu của nền kinh tế đủ mạnh để hấp thụ được sự mở rộng của hoạt động sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp có thể thấy được sự mở rộng kinh doanh của họ là có tiềm năng, về góc độ thị trường.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Ecomonica Việt Nam. (Ảnh: VOV)

Nghĩa là, sự cân bằng cung - cầu mới là cốt lõi để tăng trưởng kinh tế bền vững và phát triển trên cơ sở thực tiễn. Nếu chỉ gia tăng tín dụng bằng biện pháp giảm lãi suất mà không song hành với các biện pháp hồi phục, củng cố và phát triển tổng cầu sẽ khiến nguồn vốn tín dụng gia tăng và được chuyển tải đến các dự án sản xuất kinh doanh thiếu bền vững về tài chính, không chắc chắn về phương án trả nợ. Do thiếu các dự án sản xuất kinh doanh có thể tạo ra giá trị thực, có khả năng hoàn trả nợ vay, các nỗ lực đẩy mạnh vốn ra thị trường thậm chí có thể dẫn đến tình trạng vốn tín dụng được chuyển tới các lĩnh vực có tính đầu cơ, từ đó khiến một số thị trường tăng giá bong bóng trở lại. 

Do vậy, đẩy tín dụng vào nền kinh tế khi năng lực hấp thụ của nền kinh tế còn hạn chế, doanh nghiệp, người dân hay các cơ sở kinh tế chưa sẵn sàng về năng lực sử dụng, khi đó cũng khó đảm bảo rằng tín dụng với tư cách là nhân tố đầu vào sẽ được chuyển hoá hiệu quả thành tăng trưởng. 

TS. Lê Duy Bình cũng nhận định, bơm vốn bằng mọi cách để đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa hẳn là phương án tối ưu nhất. Nó có thể gây ra nhiều hệ luỵ, đặc biệt là về rủi ro gia tăng nợ xấu do áp lực phải giải ngân vốn bằng mọi cách, áp lực phải hạ chuẩn tín dụng để đưa vốn ra thị trường. Điều này khiến nguồn lực này không được phân bổ tới những doanh nghiệp và người dân sử dụng nó một cách tốt nhất, hoặc không được để dành đến thời điểm mà doanh nghiệp và người dân có thể sử dụng một cách tốt nhất khi điều kiện thị trường tốt hơn.

Hơn hết, nhấn mạnh vào tăng trưởng tín dụng và nguồn vốn ngân hàng sẽ dẫn đến tâm lý coi tín dụng là chìa khoá của tăng trưởng và là giải pháp cho mọi vấn đề của nền kinh tế. Nó cũng dẫn đến tâm lý phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng và làm trì hoãn các nỗ lực nhằm phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu và các kênh huy động vốn khác. 

TS. Lê Duy Bình

Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn ở mức gấp 2 lần, thậm chí gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP. Điều này cho thấy hiệu quả đóng góp của một đồng tín dụng tăng thêm vào tăng trưởng GDP chưa cao. Cho nên, tốc độ tăng trưởng về tín dụng cũng chỉ nên ở mức tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. 

Bởi vậy, các ưu tiên chính sách hiện nay cũng cần chuyển hướng sang chú trọng nâng cao hiệu quả, chất lượng của tín dụng và hiệu quả của đóng góp của tăng trưởng về tín dụng cho tăng trưởng GDP, từ đó nâng cao hiệu quả tổng thể trong sử dụng nguồn lực của nền kinh tế. 

Từ góc độ này, TS. Lê Duy Bình cho rằng tốc độ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng về số lượng không nên được coi là mục tiêu hay chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng hay của nền kinh tế. Nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, năng suất hơn nếu như các nguồn lực hạn chế như tín dụng được sử dụng ít hơn nhưng lại mang lại tốc độ tăng trưởng cao hơn. Nhấn mạnh vào tăng trưởng tín dụng mới chỉ là nhấn mạnh về yếu tố đầu vào chứ chưa phải vào hiệu quả đầu ra, vào số lượng chứ chưa phải vào chất lượng. Cũng vì lý do đó, các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế không nên được coi là chỉ tiêu ưu tiên hàng đầu.

Thay vì sử dụng chỉ tiêu về số lượng hay tốc độ tăng trưởng tín dụng, cần sử dụng các các chỉ tiêu về chất lượng của tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là về đóng góp của tăng trưởng tín dụng cho tăng trưởng GDP. Đồng thời, cần nhấn mạnh vào các mục tiêu khác cũng vô cùng quan trọng của ngành ngân hàng đó là sự an toàn hệ thống, lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng được kiềm chế, tỷ giá hối đoái ổn định, thanh khoản được đảm bảo, khả năng cung ứng vốn đầy đủ, phù hợp, đúng liều lượng mà nền kinh tế cần, nguồn lực tín dụng được phân bổ hiệu quả. 

Nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay không đạt được mục tiêu 14 - 15% song tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn đạt được mức 5,3%, tiệm cận mức mục tiêu tăng trưởng 6 - 6.5% như Chính phủ đề ra, đồng thời lạm phát được kiểm soát, tỷ giá hối đoái được ổn định, các chỉ số kinh tế vĩ mô được duy trì, sức khoẻ của ngành ngân hàng, hệ thống tài chính được đảm bảo, đầu tư vẫn gia tăng, thì đây chắc chắn không phải là một điểm trừ. Trái lại, thậm chí đây lại là một điểm cộng do nó là chỉ dấu cho thấy nền kinh tế bắt đầu hướng tới mục tiêu sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả hơn và nền kinh tế sẽ có những định hướng để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng, chú trọng hơn khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn khác của nền kinh tế. 

TS. Lê Duy Bình khẳng định, vốn tín dụng quá nhiều, vượt quá năng lực hấp thụ của nền kinh tế sẽ gây rủi ro về nợ xấu, rủi ro bong bóng tài sản, tình trạng đầu cơ. Tăng trưởng tín dụng nên chỉ ở liều lượng phù hợp để hỗ trợ, kích thích tăng trưởng kinh tế, phù hợp với năng lực hấp thụ của nền kinh tế. Đó mới là nền tảng cho sự phát triển bền vững và là khởi đầu cho sự dịch chuyển từ mô hình dựa trên các yếu tố đầu vào sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất và hiệu quả./.

 

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top