Chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa DNNN được gần 18 năm, kể từ khi có Nghị quyết Hội nghị TW 3 khóa IX năm 2001 đến nay. 18 năm thật sự quá đủ để thực hiện một công việc như thế. Trong thời đại một ngày bằng 20 năm thì càng thấy điều này rất đáng suy nghĩ. Vấn đề đã được mổ xẻ nhiều, đặc biệt là Nghị quyết TW 5 khóa XII năm 2017 đã có tổng kết đánh giá đầy đủ và đề ra phương hướng, giải pháp tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, trong đó một việc rất quan trọng là đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn.
Cho đến nay, mới chỉ thực hiện được việc thoái vốn gần 10%, không khi nào thực hiện được mà còn đạt thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu kế hoạch. Nếu dự định sẽ thoái còn 50% thì thật là một khối lượng vốn rất lớn. Hơn nữa, một phần lớn khối lượng vốn này lại nằm tại các doanh nghiệp không dễ thoái vì chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn không cao, thậm chí thấp kém so với nhu cầu thị trường trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập ngày càng khốc liệt.
Nhưng điều đáng nói hơn là tuy đã có chủ trương, kế hoạch rất rõ ràng, nhưng việc thực hiện còn ỳ ạch, bởi còn vướng nhiều chuyện, trong đó chuyện khó nhất là việc xác định giá trị đất đai, tài sản, vốn, giá trị hữu hình và cả giá trị vô hình (thương hiệu, trí tuệ) của doanh nghiệp, cùng với việc vượt qua sự níu kéo của các doanh nghiệp và cơ quan chủ quản từ trước đến nay. Người ta đã nói nhiều đến lợi ích nhóm, “sân sau sân trước” (giữa doanh nghiệp và cơ quan chủ quản) là một lực cản lớn, nhiều khi trở thành quyết định, không chỉ làm chậm mà còn phát sinh nhiều chuyện tiêu cực, tham nhũng. Công phá vào đây có lẽ chính là khâu quyết định nhất.
Cùng với việc công phá nói trên, cũng cần tạo sự thống nhất thêm về nhận thức và quan điểm đối với DNNN. DNNN là một sản phẩm – chủ thể của kinh tế thị trường, không riêng của loại hình kinh tế thị trường nào trên thế giới. Nó có vai trò quan trọng như thế nào tùy theo thể chế kinh tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Nói chung, nó gắn với vai trò và phương thức quản trị của Nhà nước trong nền kinh tế đó.
Một vấn đề lâu nay thường được dư luận, các doanh nghiệp tư nhân và giới chuyên gia nói nhiều là DNNN còn được ưu đãi, không bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân. Điều này là có thật, ngay trong việc cổ phần hóa đất đai. Trước đây, có trường hợp giá trị của đất đai không đưa vào ngân sách Nhà nước mà nhiều khi bị chia đi chỗ khác. DNNN khi cổ phần hóa phải tính toán, sắp xếp lại đất đai phục vụ cho sản xuất kinh doanh, còn dôi dư thì phải chuyển lại cho địa phương quản lý theo đúng quy định.
Cho nên, việc xác định đúng giá trị theo cơ chế thị trường và công khai minh bạch trong sắp xếp đất đai trước cổ phần hóa và trong thực hiện cổ phần hóa là vấn đề rất hệ trọng, có như vậy mới không gây thất thoát tài sản của Nhà nước và không để xảy ra những vụ việc tham nhũng phức tạp như thời gian qua.
Đất đai là vấn đề đại sự, sắp tới Quốc hội nên xem xét lại quy định về chuyển quyền sử dụng đất theo mục đích cho linh hoạt. Chúng ta nên quy hoạch lại để sử dụng đất đai cho hợp lý, nhất là trong điều kiện đi dần vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vòng đời sản phẩm cũng như chu kỳ kinh doanh rút ngắn lại rất nhiều, vì thế doanh nghiệp không thể kinh doanh mãi một loại sản phẩm, dịch vụ. Nếu quy định cứng quá sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp không thể chủ động, linh hoạt trong phát triển các ngành nghề mới.
Ngoài đất đai, việc định giá trị tài sản khác của doanh nghiệp cần tính tới một vấn đề là trong điều kiện hiện nay, do nhiều doanh nghiệp có giá trị thực trên thị trường thấp hơn nhiều giá trị trên sổ sách, điều này rất dễ hiểu. Do đó, để cổ phần hóa không quá khó khăn về khía cạnh này, cần có thái độ mềm mỏng, không nên cao giá mà vì vậy khó bán.
Theo kinh nghiệm cũng của Indonesia, có doanh nghiệp đã từng phải chấp nhận bán với giá 0 đồng nội tệ, coi như cho không, để xử lý cho xong vì càng kéo dài càng khó hơn; sau đó do doanh nghiệp này sẽ được phục hồi và phát triển, Nhà nước sẽ thu lợi qua thuế. Vấn đề chỉ là phải công khai minh bạch, theo đúng quy định pháp luật. Đây chỉ là nói trường hợp không phổ biến, nhưng với ý không nên tiếc rẻ một thứ tài sản đã mất giá, cố níu kéo làm cho khó khăn kéo dài, mà giá trị không tăng thêm, thậm chí còn mất đi.
Ngày nay, hơn bao giờ, thời gian là một tài sản có giá trị vô hình mà nhiều khi lớn hơn giá trị hữu hình, đó chính là thời cơ bị bỏ lỡ, nguồn tài sản bị nằm chết. Hơn nữa, thời gian xác định đến 2020 hoàn thành cổ phần hóa không thể kéo dài làm chậm tiến trình tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.