Giáo sư Hoàng Tuệ, thân phụ của Bảo Ninh, là người đặt nền móng xây dựng và phát triển ngành ngôn ngữ học Việt Nam, được phong hàm giáo sư đợt đầu tiên vào năm 1980.
Tôi chơi với Bảo Ninh, qua lại nhà anh nhiều lần, có không ít dịp tiếp xúc với giáo sư Hoàng Tuệ. Chứng kiến những ngày tháng cuối cùng của ông cũng như những gì Bảo Ninh, con trai thứ của vị giáo sư, giành được trong sự nghiệp, tôi đã viết những dòng đầy cảm thán: “Có lẽ nào lại buồn! Những con chữ, suốt đời ông lựa chọn, chăm sóc, gieo trồng, ít nhất đã nằm trong huyết quản, mạch máu, trái tim con trai ông, để rồi nó được tái sinh trở lại với đời.
Những gì giáo sư Hoàng Tuệ đã làm, chưa kịp làm, thôi đừng tính, chỉ riêng cái tác phẩm đời của ông - Nhà văn Bảo Ninh - ông để lại, đã đủ làm ông thanh thản. Ông là người hạnh phúc”. Năm 2001, Viện Ngôn ngữ học cho xuất bản “Hoàng Tuệ tuyển tập ngôn ngữ học” dày gần 1200 trang, bài viết của tôi được chọn cùng 5 bài khác của những nhà ngôn ngữ học hàng đầu: Hoàng Phê, Cao Xuân Hạo, Lê Xuân Thại, Đào Thản, Lý Toàn Thắng trong phần "Bạt" của cuốn sách. “Người chọn chữ và tác phẩm đời” là tựa đề bài viết đó.
Văn phong của Bảo Ninh được thừa hưởng từ nền tảng ngôn ngữ của người cha. Và anh, với tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” cùng hàng trăm truyện ngắn ấn tượng, là một hành trang đáng nể của một nhà văn. Bảo Ninh thực sự là tác phẩm đời, tác phẩm xuất sắc của người chọn chữ Hoàng Tuệ.
Ai đã đọc Bảo Ninh, nếu chấp nhận được văn phong của anh, hẳn sẽ thấy một năng lực chữ nghĩa dồi dào như mạch chảy ào ạt của sông suối. Văn Bảo Ninh giầu hình ảnh, trầm buồn, uyển chuyển, lắt léo, bất ngờ nhưng rất thực, rất đời. Chữ nghĩa của Bảo Ninh cầu kỳ nhưng lại chính xác và đặc biệt ngập tràn cảm xúc. Đọc bất cứ cái gì của anh đều cho ta một cảm giác tin cậy, chia sẻ và cộng hưởng.
Với những ai đã đọc “Nỗi buồn chiến tranh” đều bị hút vào cái không khí chiến trận của một thời máu lửa và hầu hết đều bị ám ảnh bởi những gì xảy đến từ cuộc chiến đó. Cuộc chiến mà Bảo Ninh là người trong cuộc và nỗi ám ảnh đó trong anh dễ đến bao nhiêu năm sau vẫn chưa thoát ra được.
Bảo Ninh của đời sống thường nhật rất ít người hiểu nổi. Anh trầm lặng như một kẻ ở ẩn và lập dị ở nhiều chiều kích cuộc sống. Tôi là người đọc Bảo Ninh rất sớm, bắt đầu từ tập truyện ngắn “Trại bảy chú lùn” và nói thật là tôi mê văn anh. “Nỗi buồn chiến tranh” thật sự là một cuốn sách gây nhiều ảnh hưởng với một người viết trẻ là tôi. Có tham gia chiến tranh vào những năm cuối ở chiến trường, tôi bập vào cuốn sách một cách say mê. Những vấn đề đa chiều được đề cập trong cuốn sách về cuộc chiến được một người lính như tôi chấp nhận và chia sẻ.
Cuốn sách khác với những gì tiểu thuyết chiến tranh của văn học Việt đương thời và trước đó, không mang tính sử thi mà miêu tả góc độ thân phận người lính với đầy đủ mọi cung bậc, sắc thái của con người bình thường trong lò lửa chiến trận. Cuốn sách tạo ra những tiếng vang và ảnh hưởng lớn trong bạn đọc cũng như giới sáng tác. Những gì tôi tiếp nhận từ cuốn sách cùng những kỷ niệm đời lính đã kéo chúng tôi trở thành bạn bè vong niên.
“Nỗi buồn chiến tranh” trong ấn bản đầu mang tên “Thân phận tình yêu” ra đời và giành được Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991 cùng hai cuốn tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường và “Bến không chồng” của Dương Hướng. Đây là bộ ba tiểu thuyết trong một mùa giải thưởng in đậm dấu ấn. Đến tận bây giờ vẫn chưa có một năm nào giải thưởng tiểu thuyết vượt được bộ ba này.
Năm 1994, “Thân phận tình yêu” được dịch ra tiếng Anh và xuất bản ở Hoa Kỳ. Liên tiếp sau đó, cuốn sách được dịch ra hơn mười thứ tiếng phát hành rộng rãi trên nhiều nước ở khắp các châu lục. Trong nước, “Thân phận tình yêu” được tái bản năm 2005 và từ năm 2006 được chính thức mang lại tên ban đầu “Nỗi buồn chiến tranh” ở những lần tái bản kế tiếp.
Ngoài đời Bảo Ninh là một người kiệm lời. Trong mọi câu chuyện, Bảo Ninh luôn ngắc ngứ, diễn đạt rất khó khăn, kém toàn phần về khẩu ngữ. Có lẽ mọi tinh hoa của anh đều đã dồn hết vào các con chữ. Nhập ngũ năm 1969 khi 17 tuổi, người lính Bảo Ninh đã tham gia chiến đấu ở chiến trường B3 (Tây Nguyên) ác liệt cho đến tận khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Trở về trường đại học với chuyên ngành sinh vật nhưng anh lại không theo nghề mà bỏ ngang nhập học Trường Viết văn Nguyễn Du để đi theo văn nghiệp. Bảo Ninh sáng tác ít và chậm. Ngoài “Nỗi buồn chiến tranh”, anh viết truyện ngắn và luôn ấp ủ một cuốn tiểu thuyết thứ hai. Bạn bè Bảo Ninh đã ròng rã chờ đợi cuốn tiểu thuyết ấy nhiều năm trời nhưng có tài thánh cũng chẳng ai biết bao giờ nó mới được sinh hạ.
Thường thì Bảo Ninh không có vẻ khó gần thường thấy ở một số nhà văn nổi tiếng. Anh bình dị, không vồ vập nhưng thân thiện. Tuy vậy, Bảo Ninh rất ngại giao tiếp và chơi với bạn bè khá chọn lọc. Hầu như anh tránh mặt ở những cuộc xã giao cũng như hội nghị mang tính nghề nghiệp. Một Bảo Ninh lù khù, chậm chạp, sống nội tâm, ít chia sẻ và tránh né mọi vấn đề, kể cả văn học, với mọi người, nhưng cũng một Bảo Ninh ấy bên bạn bè lại cực kỳ nồng nhiệt và hào phóng.
Có một chi tiết này, mấy chục năm chơi với Bảo Ninh, tôi chưa bao giờ thấy anh dùng ví. Tiền bạc có bao nhiêu anh vo tròn thành một cuộn nhét ở túi áo ngực. Dù bất kể ai mời, khi đứng dậy Bảo Ninh cũng thò vào túi áo lôi cuộn tiền ấy ra để trả như một phản xạ. Bảo Ninh chẳng bao giờ biết mình có bao nhiêu tiền trong túi. Thường thì anh cũng chẳng có nhiều tiền, nhưng đã chơi với bạn là hết mình, là tới bến. Anh cởi mở, thậm chí nhiều lời. Tất nhiên vẫn là những lời không đầu không cuối.
Và anh nghiệt ngã với cả chính bản thân mình. Không bao giờ Bảo Ninh muốn ai đó nói về mình, viết về mình. Anh sợ chụp ảnh, sợ mạng mọt, sợ faceebook. Lúc tỉnh táo, Bảo Ninh hay giao hẹn đừng ai đưa hình ảnh của anh lên bất kể một trang nào đó. Những ám ảnh thời chiến tranh hằn rõ ở đời sống thường nhật của những lính chiến như Bảo Ninh. Dường như người lính Bảo Ninh vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc chiến. Anh đã già nhưng vẫn chưa hòa nhập nổi với cuộc sống hậu chiến.
Bây giờ hiếm khi ai có thể gặp được Bảo Ninh. Rượu cũng không còn là thứ hấp dẫn được anh. Bảo Ninh từ chối mọi cuộc rượu. Thi thoảng gặp anh ở một chỗ nào đấy thì đó là hãn hữu và bất ngờ. Một nhà văn của chiến trận đã lùi xa mọi thứ của đời sống thường nhật, nhưng tôi biết anh vẫn đau đáu nỗi niềm của một thời binh đao xưa và nếu có viết thì đấy vẫn là những trang viết hôi hổi nóng về ký ức về chiến trận. Bảo Ninh thực sự là một người lính đáng kính trọng và anh, với văn nghiệp của mình, xứng đáng có một vị trí trong ít ỏi các nhà văn đặt được dấu ấn rất ấn tượng trong nền văn học Việt.