Cũng là một sự lạ của tạo hóa và nhân sinh khi đem cây cỏ may ra làm cái cớ cho bao nhiêu là triết lý, bao nhiêu là ví von, bao nhiêu là cảm hứng thi ca. Cái loài cỏ vô hương, vô duyên ấy còn có thêm cái tội là vô dụng! Chưa thấy ai dùng cỏ may vào việc gì. Cả đời sinh trưởng và tàn lụi, cỏ may vẫn chỉ ở nguyên một chỗ.
Tầm thường như cỏ rày nhưng là món ăn hảo hạng cho trâu bò. Thô kệch như cỏ bồ mà có lúc còn được ngự ở những nơi linh thiêng. Cỏ xước đáng ghét, có thể gây chảy máu như chơi, nhưng từng là vị thuốc cứu người. Cỏ gà chỉ mỗi việc làm rối chân cũng có lúc khiến cuộc đời thêm hương vị...
Chỉ cỏ may là sinh lão bệnh tử đều nguyên một kiếp cỏ.
Nhưng cái vô dụng ở đời đôi khi lại chính là cái trời tạo ra với nhiều ý tứ sâu xa nhất. Chẳng hạn với tuổi thơ của mỗi người thì cỏ may quan trọng đến thế nào! Khó mà bỏ qua được cỏ may, trừ phi đó là thứ tuổi thơ nghèo xác nghèo xơ, đơn điệu và nhàm chán. Có thể không cần tất cả các loại cỏ khác, nhưng tuổi thơ thực sự thì nhất định phải có cỏ may. Thiếu cỏ may hồn chông chênh lắm.
Thiếu cỏ may, những buổi chiều hè hay cuối thu, đầu đông, thành ra nhạt thếch. Thiếu cỏ may ký ức biết lấy gì mà ghim vào đó những kỷ niệm? Gió trở nên lang thang một cách vô hồn vô cảm. Và thiếu cỏ may thì muôn loài cỏ khác thành “áo gấm đi đêm”. Còn với những đôi trai gái đã biết hẹn hò thì cỏ may là nhân chứng của mọi bí mật mà ngay cả trời đất có thể cũng không biết...
Câu thơ “Áo em sơ ý cỏ găm đầy” của nữ sỹ Xuân Quỳnh, dù chẳng nêu rõ tên cỏ, nhưng ai cũng thừa biết, đó là cỏ may. Chỉ là cỏ may. Còn thứ cỏ nào khác được nữa!
Vào cữ rực rỡ nhất của đời cỏ may, mỗi triền đê trở thành thánh đường của những loài côn trùng. Nền trời ngăn ngắt xanh khiến mầu tím nhạt cỏ may thành một thứ ẩn ngữ của đất. Ai từng thấy khung cảnh đó, thể nào cũng thốt lên: Lạ lùng nhất trên đời là cỏ may!
Với tôi, cỏ may còn là một thứ cỏ đa tình. Mỗi lần qua con đê trước khi về làng và ngược lại, cỏ may đều níu chân tôi, đều nài xin tôi, đều tinh nghịch trêu trọc. Mỗi khi buồn hay thất bại, cỏ may giống như tri kỉ, luôn thành tâm cầu nguyện cho tôi. Còn lâu tôi mới hiểu ngôn ngữ của cỏ may nhưng tôi cảm nhận được ở đó một điều gì đó vô cùng quan thiết, rất đỗi ngọt ngào và thiêng liêng.
Cỏ may khâu tôi vào với mọi người, với những tháng ngày vút qua nhanh như ngựa phi nước đại nhưng thanh bình. Giờ đây, có lúc tôi thèm khát được thấy lại cảm giác nhoay nhoáy vào da thịt của những hạt cỏ chết rồi vẫn da diết với sứ mệnh sinh ra làm một ngụ ý. Khi đó thường hiện lên trong ký ức tôi khuôn mặt nhăn nheo của bà nội. Bà ngồi nhặt cỏ may găm vào quần áo tôi, miệng lẩm nhẩm đọc truyện Kiều.
Cuộc đời phiêu bạt đã nhiều nơi, nhưng chưa khi nào tôi tìm lại được cái cảm giác hạnh phúc như những khi nằm dài trên chõng bên bà nội, quần áo chi chít cỏ may. Kể cả khi đã về với tổ tiên, bà vẫn luôn hiện lên trong giấc mơ của tôi bằng vẻ mặt thật hiền hậu, với lời mắng yêu: Gặp cỏ may thì phải tránh ra chứ! Có lẽ vì thế mà cứ khi nào thấy lòng không bình yên, thấy phải nghĩ ngợi về điều gì đó hơn thiệt ở đời, tôi lại tìm đến cỏ may, nghĩ đến cỏ may. Ở đó, đôi khi chỉ là trong hồi ức, tôi nhặt lại được những gì đẹp nhất bị tôi quăng quật khi lao theo những thứ hào nhoáng...
Chẳng hiểu sao, tôi cứ nhất định tin rằng chỉ cỏ may là thứ cỏ duy nhất có hồn!