Vào lễ ba ngày của cha tôi, theo phong tục, chúng tôi làm lễ phóng sinh cho 20 con chim. Từ chiều hôm trước, cháu tôi mua 20 con chim ri từ một chợ chim ở thành phố mang về. Chiếc lồng đựng 20 con chim ri được treo dưới một tán cây trong vườn. Tôi đã nghe tiếng những con chim ri kêu khe khẽ suốt đêm.
Sáng hôm sau, làm lễ xong, chúng tôi mở cửa lồng thả 20 con chim ri. Những con chim ri bé xíu đập cánh hoảng hốt trong lồng. Một lúc sau chúng mới tìm thấy lối ra. Có lẽ bị người bán chim giam giữ quá lâu trong lồng, cho nên bầy chim ri khi đã ra khỏi lồng vẫn không bay đi. Chúng vừa đập cánh vừa nhảy lò lò trên mặt cỏ trong vườn. 20 mươi con chim đứng rạt vào nhau. Chúng mở những đôi mắt nhỏ như hai hạt vừng đen ngơ ngác nhìn quanh. Rồi một con chim đập cánh bay lên vòm cây gần đó. Khi đã đậu trên một nhánh cây nhỏ, con chim ri bắt đầu hót đúng giọng điệu của một con chim tự do. Tiếng nó trong vắt và tan vào khu vườn như sự toả hương của những chùm nguyệt quế. Tiếng hót đó thôi thúc những con chim vẫn còn đang ngơ ngác và run rẩy trên đám cỏ. Và 19 con chim ri còn lại như đã nhận ra thế giới của chúng. Tất cả cùng đập cánh và bay lên vòm cây. Đến lúc này, tiếng hót của 20 con chim ri đã từng bị giam cầm trong lồng làm cả khu vườn như có hàng trăm quả chuông nhỏ xíu đang được những bàn tay vô hình lắc vang.
Tôi đứng lặng trong vườn như một cậu bé nhìn về phía vòm lá. Tâm hồn tôi ngập tràn trong tiếng chim của một buổi sáng đầu hạ, một buổi sáng mà trái tim tôi đang đau đớn bởi sự ra đi của cha tôi. Nhưng tôi nhận ra, có một lời an ủi bí ẩn đang làm trái tim tôi dịu bớt buồn đau. Có một cánh cửa vô hình nào đó đang từ từ mở ra để tôi nhìn vào đó và nhận ra những điều mới mẻ mà trong đời sống với quá nhiều u buồn và mất mát đã đóng lại từ lúc nào.
Sau những tiếng hót của bầy chim ri như lời cám ơn lòng tốt vô tình của chúng tôi và cũng như lời giã biệt, 20 con chim ri đập cánh rời khỏi khu vườn ra đi. Tôi thầm cầu chúc cho những con chim ấy không bao giờ bị bắt lại và bị giam cầm trong những chiếc lồng ở chợ chim nữa. Từ ngày ấy, mỗi khi trở về nhà và đứng trong khu vườn mỗi buổi sáng, tôi vẫn nghe tiếng đập cánh của bầy chim trong vòm lá xanh thẫm và tiếng hót trong như ngọc của chúng. Và lần nào cũng vậy, cảm giác ấy như một làn gió trong lành thổi từ một đầm nước lớn vào lòng tôi.
Thời gian cứ thế trôi đi. Đến một ngày, có một sự kỳ diệu hiện ra trong chính khu vườn nơi chúng tôi làm lễ phóng sinh 20 con chim ri một năm trước. Đó là ngày giỗ đầu cha tôi. Buổi sáng ấy tôi dậy rất sớm và bước ra vườn như thường lệ. Đó là một ngày đầu hạ. Những vòm lá xanh mướt sau một đêm mưa. Những chùm nguyệt quế nở trắng muốt và toả hương ngào ngạt. Và từ một chân trời nào đó, bầy chim ri sà xuống khu vườn. Tôi không thể đếm xem có bao nhiêu con chim ri trở về khu vườn lúc đó. Nhưng tôi tin rằng: có 20 con. Và đó là 20 con chim mà chúng tôi đã thả tự do cho chúng trong một ngày đau buồn của chúng tôi. Bầy chim ri sà xuống vòm lá của một năm về trước. Chúng chuyền nhảy và đập cánh làm xao động vòm lá. Rồi chúng sà xuống đám cỏ khu vườn đúng nơi chúng đã đứng rạt vào nhau run rẩy và sợ hãi của một ngày đầu hạ một năm về trước sau nhiều ngày bị giam cầm. Chúng bay nhảy trên cỏ chỉ cách tôi một, hai bước chân, không hề sợ sệt và hót vang.
Cảm giác đau buồn trong tôi về sự ra đi mãi mãi của cha tôi vơi đi rất nhiều. Những ý nghĩ và cảm xúc về sự sống và cái chết trong tôi đã thay đổi. Lúc đó, dù chỉ là một khoảnh khắc nhanh hơn một cái chớp mắt, tôi thấy cha tôi đang ngồi trên chiếc ghế gỗ bạc sơn dưới những tán lá trong vườn uống trà như những buổi chiều mùa hạ trước kia. Tôi thấy cha tôi mỉm cười. Tôi chợt nhớ lại, thi thoảng tôi về thăm cha tôi những ngày cuối tuần, ông thường dẫn tôi ra vườn và chỉ cho tôi những tổ chim mới làm trong những tán lá. Có những buổi chiều, cha tôi ngồi trong vườn uống trà và nhìn bầy chim trở về những chiếc tổ của chúng cho đến khi bóng tối tràn ngập.
Tôi nhớ có một đêm khi tôi còn trẻ. Đó là một đêm có tiếng mưa đổ xuống lúc gần sáng. Cha tôi vội mở cửa ra sân vì ông tưởng đó là tiếng đập cánh của bầy mòng két đã biến mất trong nhiều năm, giờ lại trở về. Làng tôi nằm trong đường bay của những đàn mòng két trong mùa đi ăn của chúng thường vào tháng Mười. Những đàn mòng két có lẽ đến hàng ngàn con, bay qua làng tôi về những đầm nước ven chân dãy núi đá vôi giữa Hà Tây và Hoà Bình. Tiếng đập cánh của chúng vang lên như một cơn mưa lớn. Nhưng rồi do săn bắn và môi trường bị tàn phá, bầy mòng két biến mất cho đến tận bây giờ. Hồi đó, có nhiều lần cha tôi dậy từ hai giờ sáng để đi đò sang bên kia sông và đạp xe đến những đầm nước ven chân núi xem mòng két có còn về đó kiếm ăn không. Và lần nào trở về cha tôi cũng thất vọng. Đấy là một nỗi buồn trong những nỗi buồn của cha tôi. Ông không hề buồn về những thiệt thòi mà cá nhân ông đã phải chịu so với những gì ông và đồng đội của mình đã hiến dâng nhưng ông buồn vì những điều như thế đang ngày một biến mất trong đời sống này.
Bay nhảy trên cỏ và hót vang một lúc rồi bầy chim ri đập cánh bay đi. Tôi đứng mãi trong khu vườn và tôi nhận thấy, trong đôi bàn tay tôi, đã được đặt vào một món quà của cuộc đời. Đó là một món quà vô giá. Nếu bây giờ ai đó chưa nhận ra điều đó thì sẽ có ngày sẽ nhận ra. Tôi luôn luôn tin là như vậy. Chúng ta vẫn thường xuyên nguyện cầu để xin Tạo hoá ban cho chúng ta những món quà. Và quá nhiều người trong chúng ta đã tuyệt vọng bởi sự chờ đợi dằng dặc của mình. Nhưng Tạo hoá vẫn ngày ngày gửi những món quà vô giá cho chúng ta. Nhưng có điều, nhiều lúc chúng ta không nhận biết được những món quà ấy.
Khi hỏi về phép thiêng thực sự có trong đời sống không, thì hầu hết chúng ta nhếch mép cười nhạo. Bởi chúng ta chỉ hiểu phép thiêng giống như việc biến một cục đất thành một tảng thịt bò hay một cục vàng để phục vụ thói hưởng lạc vật chất của chúng ta. Bởi thế chúng ta không thể nào thoát khỏi tham lam, u uất, đố kị, hận thù, tuyệt vọng với những người xung quanh.
Chúng ta không chịu hiểu, phép thiêng là một điều gì đó thật giản dị nhưng cũng rất kỳ vĩ. Nó hoàn toàn thay đổi đời sống tâm hồn chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhìn thấy những vẻ đẹp của đời sống, làm cho chúng ta bỗng thấy mình nhân ái và khát vọng đưa bàn tay về phía những số phận bất hạnh, làm cho chúng ta thấy vẻ đẹp ngự trị trên những gương mặt mà chúng ta từng thù ghét mà chẳng có lý do rành mạch nào, làm cho chúng ta hiểu rằng ban phát lòng tốt và độ lượng cho người khác chính là chúng ta đang nhận vào mình lòng tốt và độ lượng của đời sống. Và ngay sáng mai thôi, bạn hãy chia sẻ và tha thứ cho một ai đó, ngay lập tức, bạn sẽ thấy mình hạnh phúc và lớn lên biết nhường nào.