Aa

PGS.TS Bùi Thị An: Phát triển bền vững, kinh tế xanh, ESG - định hướng mới cho doanh nghiệp dân tộc

Thứ Bảy, 01/11/2025 - 06:16

Thế giới đang chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng phát triển bền vững và kinh tế xanh, mở ra cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, hướng tới thịnh vượng 2045. Trong bối cảnh đó, việc tích hợp ESG vừa là yêu cầu hội nhập, vừa là nền tảng giúp doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững và góp phần kiến tạo tương lai xanh cho đất nước.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển mình mạnh mẽ hướng tới phát triển bền vững và kinh tế xanh, Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội lịch sử để tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng 2045.

Trên hành trình ấy, đội ngũ doanh nghiệp dân tộc - những chủ thể tiên phong trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiến tạo giá trị, lan tỏa tinh thần tự cường và nâng tầm vị thế quốc gia.

Việc tích hợp ESG (Environmental - Social - Governance) không chỉ là yêu cầu hội nhập quốc tế, mà còn là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển dài hạn, an toàn và bền vững của doanh nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên xanh hóa toàn cầu.

PGS.TS Bùi Thị An: Phát triển bền vững, kinh tế xanh, ESG - định hướng mới cho doanh nghiệp dân tộc- Ảnh 1.

PGS. TS. Bùi Thị An, Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng. (Ảnh: Tùng Dương)

Phát triển bền vững là tư duy cốt lõi của thời đại và kinh tế xanh là hướng đi tất yếu của doanh nghiệp dân tộc

Từ góc độ chính sách, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, đồng thời nhấn mạnh tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường là trụ cột phát triển mới.

PGS.TS. Bùi Thị An nhìn nhận, đây là bước tiến trong tư duy, tạo hành lang chính sách để khu vực tư nhân tham gia sâu vào tiến trình chuyển đổi xanh, từ người thụ hưởng chính sách trở thành lực lượng trực tiếp hiện thực hóa phát triển xanh, tuần hoàn và bền vững.

Đặc biệt, khái niệm “phát triển bền vững” ngày nay không chỉ dừng lại ở cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường; mà còn bao hàm yếu tố văn hóa, thể chế và trách nhiệm cộng đồng. Với doanh nghiệp dân tộc, phát triển bền vững chính là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích quốc gia, giữa mục tiêu lợi nhuận và sứ mệnh phụng sự xã hội.

Theo PGS.TS. Bùi Thị An, từ sau Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành động lực tăng trưởng quan trọng của đất nước, đóng góp hơn 42% GDP và tạo việc làm cho hơn 80% lao động. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp vẫn ở quy mô vừa và nhỏ, thiếu khả năng cạnh tranh quốc tế và còn hạn chế trong việc áp dụng các chuẩn mực quản trị hiện đại, đặc biệt là các tiêu chí ESG.

Trong bối cảnh đó, kinh tế xanh không chỉ là cách tiếp cận quản trị mới, mà còn là chiến lược phát triển cạnh tranh dài hạn, giúp mở ra cơ hội tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu đang dịch chuyển mạnh theo tiêu chuẩn xanh.

Các trụ cột của kinh tế xanh bao gồm: Sản xuất sạch hơn, đầu tư xanh, và tiêu dùng bền vững. Các doanh nghiệp dân tộc như Vinamilk, TH, Biti’s... là những ví dụ tiêu biểu cho nỗ lực xanh hóa toàn bộ chuỗi giá trị, từ sản xuất, bao bì, năng lượng đến quản trị và thương hiệu. Điều đó thể hiện rằng, phát triển bền vững không phải khẩu hiệu, mà là lựa chọn chiến lược sống còn.

PGS.TS Bùi Thị An: Phát triển bền vững, kinh tế xanh, ESG - định hướng mới cho doanh nghiệp dân tộc- Ảnh 2.

Các doanh nghiệp dân tộc đang nỗ lực xanh hóa toàn bộ chuỗi giá trị. (Ảnh minh hoạ)

ESG là "thước đo" năng lực mới của doanh nghiệp và vị thế quốc gia

ESG là bộ tiêu chuẩn đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không chỉ qua lợi nhuận, mà còn qua tác động tới môi trường (E), xã hội (S) và quản trị (G).

Trên thế giới, ESG đã trở thành chuẩn mực đầu tư toàn cầu, quyết định khả năng tiếp cận vốn, hợp tác quốc tế và niềm tin của người tiêu dùng. Tại Việt Nam, dù còn mới mẻ, ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn đã coi ESG là kim chỉ nam chiến lược, gắn liền với quá trình chuyển đổi mô hình phát triển bền vững.

Theo PGS.TS. Bùi Thị An, trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh toàn cầu, ESG không phải là đích đến, mà là hành trình tái tạo mô hình phát triển, nơi doanh nghiệp không chỉ hướng tới lợi nhuận mà còn kiến tạo giá trị cho con người, xã hội và môi trường. Trên hành trình đó, doanh nghiệp dân tộc cần chuyển từ tư duy tuân thủ sang tư duy kiến tạo, coi ESG là lợi thế cạnh tranh chiến lược, chứ không phải là chi phí phát sinh.

Tuy nhiên, PGS.TS. Bùi Thị An cũng cho rằng, nhiều doanh nghiệp dân tộc vẫn gặp khó khăn khi triển khai ESG do hạn chế về nguồn lực, chi phí đầu tư cao, thiếu dữ liệu và nhân lực chuyên trách. Đây là thách thức cần được giải quyết thông qua chính sách hỗ trợ, đào tạo và hợp tác giữa các bên.

“Doanh nghiệp cần chuyển từ tư duy tuân thủ sang tư duy chủ động kiến tạo, coi ESG là lợi thế cạnh tranh chiến lược. Cần hình thành mạng lưới liên kết giữa doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan quản lý và viện nghiên cứu, đồng thời Nhà nước phải có chính sách tài chính xanh, ưu đãi thuế, tín dụng và chứng chỉ carbon”, PGS.TS Bùi Thị An nhấn mạnh.

PGS.TS Bùi Thị An: Phát triển bền vững, kinh tế xanh, ESG - định hướng mới cho doanh nghiệp dân tộc- Ảnh 3.PGS.TS Bùi Thị An
Cần hình thành mạng lưới liên kết giữa doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan quản lý và viện nghiên cứu, đồng thời Nhà nước phải có chính sách tài chính xanh, ưu đãi thuế, tín dụng và chứng chỉ carbon.

Cụ thể, PGS.TS. Bùi Thị An đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ:

Thứ nhất, về tài chính xanh và cơ chế bảo lãnh tín dụng xanh: Cần thiết lập các quỹ bảo lãnh để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn đầu tư công nghệ sạch; đồng thời khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, quỹ đầu tư bền vững và tín dụng ưu đãi cho các dự án tiết kiệm năng lượng, tái chế, năng lượng tái tạo.

Thứ hai, xây dựng và vận hành thị trường carbon nội địa. Việt Nam đang khởi động lộ trình từ năm 2025 và hướng tới vận hành toàn diện sau 2028. Thị trường này sẽ giúp doanh nghiệp quen với cơ chế định giá phát thải, và mở ra cơ hội mới: Doanh nghiệp đầu tư sớm vào công nghệ tiết kiệm năng lượng hoặc trồng rừng hấp thụ carbon có thể tạo tín chỉ carbon dư để bán lại, tạo thêm nguồn thu và thu hút vốn xanh quốc tế.

Thứ ba, mở rộng cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) và phát triển hạ tầng năng lượng sạch. Đây là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt trong dệt may, da giày, điện tử, chế biến gỗ, giảm phát thải phạm vi 2, đáp ứng tiêu chuẩn CBAM của EU và các thị trường xuất khẩu lớn.

Thứ tư, chuẩn hóa bộ tiêu chuẩn và chứng nhận xanh quốc gia. Việt Nam cần sớm ban hành hệ thống tiêu chí thống nhất về công trình xanh, khu công nghiệp sinh thái, sản xuất xanh và nhãn xanh sản phẩm, hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế (LEED, EDGE, Green Label...). Điều này giúp doanh nghiệp được định giá đúng, đồng thời tạo cơ sở cho các dự án xanh tiếp cận ưu đãi tài chính.

Thứ năm, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và mô hình khu công nghiệp sinh thái. Cần có cơ chế ưu đãi về đất đai và thuế cho các dự án tái chế, logistics ngược; phát triển khu công nghiệp sinh thái, nơi các doanh nghiệp chia sẻ hạ tầng xử lý chất thải - nước thải - năng lượng, tận dụng phụ phẩm của nhau làm đầu vào sản xuất. Đây là "hạt nhân" của mô hình kinh tế tuần hoàn, giúp giảm phát thải và tiết kiệm tài nguyên hiệu quả nhất.

Thứ sáu, về nâng cao năng lực quản trị ESG và minh bạch thông tin, cần đẩy mạnh đào tạo, phổ biến các chuẩn mực quốc tế IFRS S1/S2, hệ thống MRV số hóa để đo lường - báo cáo - thẩm định phát thải minh bạch. Song song, phát triển sandbox công nghệ mới cho hydrogen xanh, lưu trữ năng lượng và tín chỉ carbon chất lượng cao, giúp doanh nghiệp Việt bắt nhịp kịp thời với xu hướng quốc tế.

Đồng thời, để ESG thực sự trở thành động lực phát triển, cần sự đồng hành chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, giới khoa học và xã hội dân sự, nhằm tạo nên hệ sinh thái phát triển bền vững toàn diện.

Trong đó, Nhà nước kiến tạo thể chế, chính sách và hạ tầng pháp lý cho kinh tế xanh; Doanh nghiệp tiên phong đổi mới sáng tạo, đầu tư vào công nghệ sạch và quản trị ESG; Giới nghiên cứu, truyền thông và cộng đồng lan tỏa tri thức, củng cố niềm tin xã hội về phát triển xanh.

Với tầm nhìn dài hạn và tinh thần tự cường, đội ngũ doanh nghiệp dân tộc Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để khẳng định vai trò tiên phong, vừa là lực lượng sản xuất hiện đại, vừa là người kiến tạo tương lai xanh cho đất nước.

“Tương lai của nền kinh tế Việt Nam không chỉ đo bằng tốc độ tăng trưởng, mà bằng chất lượng phát triển, thể hiện ở sự thịnh vượng đi đôi với công bằng, tiến bộ và bền vững. Mỗi doanh nghiệp dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều là một tế bào của nền kinh tế tự cường, góp phần làm nên một Việt Nam ‘nghĩ lớn, làm thật, cống hiến không ngừng”, PGS.TS Bùi Thị An tin tưởng.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top