Trung tâm Văn hóa - Thể thao TP. Việt Trì
Dự án Trung tâm Văn hóa - Thể thao TP. Việt Trì có tổng mức đầu tư hơn 196 tỷ đồng với diện tích tổng thể là 150.016m2. Cụ thể, nguồn vốn đầu tư dự án từ ngân sách nhà nước (vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho địa phương, vốn đầu tư tập trung); vốn ngân sách của TP. Việt Trì; vốn được thực hiện theo hình thức xã hội hóa và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác. Thời gian thực hiện giai đoạn 1 từ năm 2005 đến năm 2008, giai đoạn 2 xây dựng hoàn thành từ năm 2008 đến năm 2010.
Trong đó, các hạng mục xây dựng như: Sân vận động Bảo Đà có diện tích 18.823m2; nhà thi đấu và tập luyện Bảo Đà 3.172m2; bể bơi 3.824m2; nhà điều hành kết hợp tổ chức các bộ môn khác 4.288m2; sân tennis 5.200m2 và một số hạng mục khác.
Do công trình có nhiều hạng mục phức tạp, vào thời điểm duyệt dự án chưa nhiều nhà thầu thiết kế, xây dựng được công trình. Vì vậy, chủ đầu tư đã đề xuất với UBND tỉnh cho phép lựa chọn nhà thầu theo hình thức tổng thầu EPC với giá trị trúng thầu là 170,028 tỷ đồng với hình thức hợp đồng trọn gói và thời gian thực hiện công việc 690 ngày với tất cả các hạng mục đã được phê duyệt của dự án.
Đến năm 2008, do yêu cầu cần thiết kế san nền cho nên đã tách bớt phần khối lượng này của giá gói thầu EPC giảm xuống còn 165,886 tỷ đồng và được ký phụ lục hợp đồng theo Quyết định số 44/QĐ-UBND ngày 4/1/2008, đồng thời điều chỉnh hình thức hợp đồng từ hợp đồng trọn gói sang hình thức hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh tại văn bản 521/UBND-XD2 ngày 3/3/2008.
Trong quá trình triển khai dự án đã thay đổi một số chế độ chính sách và ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh tế chung. Vì vậy, công trình không bố trí đủ nguồn vốn để tiến hành triển khai thi công, dẫn đến việc nhiều hạng mục còn dở dang chưa hoàn thiện.
Dự án khách sạn Đại Hà
Dự án khách sạn Đại Hà do Công ty TNHH Đại Hà làm chủ đầu tư, được UBND tỉnh Phú Thọ phê duyệt tại Giấy chứng nhận đầu tư số 181023000433 ngày 10/3/2011, có diện tích đất sử dụng 3.132m2, tại phường Gia Cẩm, TP. Việt Trì.
Quy mô xây dựng gồm tòa nhà 10 tầng, 2 tầng hầm và khối nhà dịch vụ sức khỏe, thể thao, tổng vốn đầu tư là 162,236 tỷ đồng. Thời hạn thực hiện là 50 năm. Tiến độ khởi công quý II/2011 và dự kiến hoàn thành quý IV/2013.
Đến thời điểm hiện tại, tức là sau 12 năm kể từ ngày khởi công dự án, theo báo cáo của nhà đầu tư và kiểm tra thực tế của cơ quan chức năng vào ngày 20/7/2021, chủ đầu tư đã xây dựng được 1 tầng hầm và 3 tầng nổi, số vốn đã đầu tư thực hiện 74,1 tỷ đồng, đạt 45,67% tổng vốn đầu tư (trong đó, tiền thuê đất 17,1 tỷ đồng; kinh phi đầu tư xây dựng cơ bản 57 tỷ đồng).
Trước đó, Sở Xây dựng tỉnh Phú Thọ đã thanh tra, kiểm tra dự án và có Kết luận thanh tra số 1852/KL-SXD, phát hiện và làm rõ các vi phạm. Về đầu tư, nhà đầu tư không triển khai thực hiện dự án theo giấy chứng nhận đầu tư; chậm tiến độ so với tiến độ dự án đã được phê duyệt; tự ý giãn tiến độ đầu tư nhưng không có văn bản gửi cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó là những sai phạm về đất đai và xây dựng.
Liên quan đến vấn đề này, nhà đầu tư đề nghị UBND tỉnh Phú Thọ chấp thuận điều chỉnh tiến độ thực hiện đến quý III/2023 dự án hoàn thành và đi vào hoạt động.
Trên cơ sở đề nghị của nhà đầu tư, UBND tỉnh Phú Thọ đã có Quyết định số 2468/QĐ-UBND ngày 2/10/2021 gia hạn sử dụng đất cho Công ty TNHH Đại Hà để thực hiện dự án khách sạn Đại Hà; thời hạn đến ngày 2/10/2023 (24 tháng kể từ ngày quyết định). UBND tỉnh Phú Thọ yêu cầu chủ đầu tư thực hiện các nội dung về đầu tư, xây dựng và hoàn thiện các thủ tục có liên quan theo quy định hiện hành, triển khai xây dựng cơ sở vật chất các hạng mục của dự án, đảm bảo hoàn thành và đi vào hoạt động chậm nhất vào ngày 2/10/2023.
Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại, dự án khách sạn Đại Hà vẫn "dậm chân tại chỗ" và không hề có động thái tiếp tục đầu tư xây dựng cũng như đưa vào hoạt động theo chỉ đạo của UBND tỉnh Phú Thọ.
Dự án Nhà máy cán thép Sông Hồng
Tương tự, dự án Nhà máy cán thép Sông Hồng (TP. Việt Trì) thuộc Công ty Cổ phần Thép Sông Hồng được UBND tỉnh Phú Thọ chấp thuận đầu tư năm 2002, có diện tích hơn 10ha, tổng mức đầu tư 234,058 tỷ đồng, công suất 180.000 tấn/năm. Đến năm 2009, công ty đã hoàn thành giai đoạn I, đi vào hoạt động.
Sau nhiều năm làm ăn bết bát, vào tháng 10/2011, những sai phạm kinh tế ở Thép Sông Hồng bị phát hiện. Một loạt nhân sự bị cơ quan chức năng khởi tố, điều tra. Sự việc càng khiến công ty chìm sâu vào khủng hoảng. Do hoạt động thua lỗ, năm 2012, công ty tạm dừng hoạt động dự án. Năm 2015, xuất hiện trên báo cáo của Tổng Công ty Sông Hồng, Thép Sông Hồng đã tăng vốn điều lệ lên thành 310 tỷ đồng. Khi đó, Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Việt Thành (Việt Thành) đã tham gia vào tái cấu trúc Thép Sông Hồng cho ra đời sản phẩm mới là thép Shinkanto.
Hiện nay, dự án không có khả năng triển khai tiếp tục, toàn bộ nhà máy cán thép Sông Hồng đã bị bỏ không, hoang tàn, cây cối mọc um tùm. Hầu hết các thiết bị máy móc đã xuống cấp vì lâu không đưa vào sử dụng. Hiện tại không có bất cứ công nhân hay hoạt động nào ở nhà máy này trừ sự xuất hiện của bảo vệ.
Ngoài những dự án kể trên, một số dự án cũng đang được UBND tỉnh Phú Thọ yêu cầu các sở, ngành, địa phương, các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các thủ tục xử lý theo quy trình phá sản doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động đối với các dự án như Khách sạn Bãi Bằng (huyện Phù Ninh), Nhà máy xi-măng Hữu Nghị tại Khu công nghiệp Thụy Vân (TP. Việt Trì), Nhà máy sản xuất phôi thép liên hoàn...
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Phú Thọ cũng yêu cầu các đơn vị liên quan thực hiện hoàn thiện thủ tục thu hồi các dự án: Dự án trồng hoa màu và nuôi trồng thủy sản ở phường Bến Gót (TP. Việt Trì), Khu du lịch Xuân Sơn (huyện Tân Sơn), Khu nông nghiệp công nghệ cao H2 (xã Đông Thành, huyện Thanh Ba).
Đồng thời, các đơn vị tiếp tục tăng cường giám sát, hỗ trợ giải quyết dứt điểm các tồn tại đối với dự án Khu du lịch Đảo Ngọc Xanh và Khu du lịch nghỉ dưỡng khoáng nóng Thanh Thủy.
Thực tế cho thấy, những công trình, dự án chậm tiến độ, bỏ hoang hiện nay luôn là vấn đề nhức nhối, không chỉ gây lãng phí nguồn lực mà đã và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, an ninh và việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ.
Nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư
Trao đổi với PV Reatimes về vấn đề này, Luật sư Diệp Năng Bình, Trưởng Văn phòng Luật sư Tinh Thông Luật (Đoàn luật sư TP.HCM) cho biết, thực tế pháp luật hiện hành đã có những quy định về chế tài và các biện pháp giải quyết, cụ thể:
Theo Luật Đất đai năm 2013 (sửa đổi bổ sung năm 2018) quy định đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng.
Đồng thời, theo Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2020) và Luật Đầu tư công năm 2019 (sửa đổi bổ sung năm 2022) cũng quy định cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá tình trạng của dự án; xem xét gia hạn hoặc đình chỉ chấm dứt dự án. Trường hợp có vi phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật.
Mặc dù vậy, để giải quyết được thực trạng này vẫn rất khó khăn, các trình tự thủ tục giải quyết mất khá nhiều thời gian và còn phụ thuộc vào quá trình làm việc giữa các bên liên quan như chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan Nhà nước...
Theo mục 3 và mục 4 Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi bổ sung năm 2020) về quản lý thực hiện dự án xây dựng và quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng, nhà thầu tư vấn và người quyết định đầu tư thì nhà đầu tư cần có trách nhiệm quản lý tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây dựng, cam kết đầu tư theo hợp đồng đã ký kết hay được cấp giấy chứng nhận đầu tư, bao gồm cam kết về mục tiêu, quy mô, thời gian, địa điểm và điều kiện đầu tư.
Việc công trình, dự án chậm tiến độ có thể gồm nhiều nguyên nhân như: chủ đầu tư, nhà thầu không đủ năng lực tài chính, chủ đầu tư lợi dụng dự án để vụ lợi... Nhưng chung quy lại thì việc nhà đầu tư không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng với hợp đồng, giấy chứng nhận đầu tư xây dựng được xem là hành vi vi phạm pháp luật. Tùy vào tính chất, mức độ của hành vi mà chủ thể vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính, thậm chí là truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, chủ thể vi phạm còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có).