Quảng Ninh và "hành trình bản lĩnh" trong phát triển kinh tế di sản
Được ví như một "Việt Nam thu nhỏ", Quảng Ninh là vùng đất hội tụ, kết tinh và lan tỏa nhiều dạng thức văn hóa tiêu biểu của đất nước, sở hữu một kho tàng di sản thiên nhiên và văn hóa đặc biệt phong phú, giàu giá trị. Toàn tỉnh hiện có gần 640 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; hơn 360 di sản văn hóa phi vật thể, với 19 di sản được ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó là hệ thống di sản văn hóa đa dạng gắn với đời sống cộng đồng của nhiều tộc người như Kinh, Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu…, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo và đa chiều của vùng đất mỏ.
Nổi bật trong "kho tàng" ấy là Vịnh Hạ Long - kỳ quan thiên nhiên thế giới đã ba lần được UNESCO công nhận; di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, trong đó có nghi lễ Then của người Tày ở Bình Liêu được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; Khu di tích - danh thắng Yên Tử, trung tâm Phật giáo gắn với Phật hoàng Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm...
Chính từ nền tảng di sản đặc biệt ấy, Quảng Ninh đã sớm nhận diện được tiềm năng phát triển của kinh tế di sản và kiên trì lựa chọn con đường khai thác di sản theo hướng bền vững. Trong nhiều năm qua, địa phương đã chủ động bám sát các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, coi phát triển kinh tế di sản là một động lực tăng trưởng mới, đồng thời là giải pháp quan trọng nhằm tái cấu trúc không gian phát triển và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Tỉnh đã ban hành và triển khai hiệu quả các đề án, quy hoạch chuyên ngành trong lĩnh vực di sản, tạo cơ sở quan trọng để kinh tế di sản phát triển. Nổi bật là Đề án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2030 và Đề án quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Cùng với đó, các quy hoạch tổng thể tại 3 khu di tích lớn gồm Yên Tử, Bạch Đằng và khu di tích lịch sử nhà Trần được tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2025 - 2030 xác định phát triển văn hóa, con người, xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, phát triển kinh tế di sản là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Định hướng này của Quảng Ninh càng có thêm động lực bởi chỉ riêng trong năm 2025, kinh tế di sản của Quảng Ninh đã có những chuyển động rất tích cực. Nhiều di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh của Quảng Ninh đã được nâng tầm giá trị, trở thành những điểm đến hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, chiêm bái, đóng góp tích cực vào tăng trưởng du lịch của tỉnh. Tỉnh cũng tích cực mở rộng không gian trải nghiệm từ Vịnh Hạ Long ra các tuyến biển đảo lân cận như vùng Vịnh Bái Tử Long, các đảo của Đặc khu Vân Đồn, Cô Tô…, tạo thành mạng lưới di sản liên hoàn với các sản phẩm du lịch độc đáo, mới mẻ. Đặc biệt, năm 2025, Quần thể di tích - danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc chính thức được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, khẳng định tầm vóc nổi bật của Quảng Ninh trên bản đồ di sản khu vực và quốc tế.
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, 11 tháng năm 2025, Quảng Ninh đón hơn 19,8 triệu lượt khách du lịch, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, khách nội địa ước đạt gần 15,8 triệu lượt; khách quốc tế ước đạt trên 4 triệu lượt. Khách lưu trú 11 tháng ước đạt gần 7,6 triệu lượt, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng thu ngành Du lịch đạt khoảng 52.600 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2024. Kết quả này có sự đóng góp đáng kể của kinh tế di sản.
Trao đổi với Reatimes, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân nhìn nhận, chặng đường phát triển kinh tế di sản của Quảng Ninh là kết quả của một sự lựa chọn có tính chiến lược khi di sản được đặt đúng "tọa độ" trong tổng thể phát triển, không còn chỉ là đối tượng bảo tồn, mà trở thành một nguồn lực kinh tế đặc thù - một động lực tăng trưởng tạo ra giá trị gia tăng bền bỉ mà không đánh đổi bằng môi trường hay bản sắc văn hóa. Khác với những mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên hữu hạn, di sản nếu được bảo tồn và khai thác đúng cách càng được gìn giữ thì giá trị kinh tế càng gia tăng theo thời gian. Điều này giúp địa phương không chỉ thu hút du khách trong ngắn hạn, mà còn xây dựng được sức hấp dẫn dài hạn, gắn với hình ảnh, thương hiệu và chiều sâu văn hóa.
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh, lựa chọn phát triển kinh tế di sản cũng chính là thước đo bản lĩnh của Quảng Ninh trong việc chấp nhận những thách thức ngắn hạn để theo đuổi lợi ích dài hạn, phù hợp với xu hướng phát triển xanh, bao trùm và dựa trên giá trị đang ngày càng trở thành chuẩn mực toàn cầu.
"Phát triển kinh tế di sản không chỉ là câu chuyện làm giàu từ quá khứ, mà là cách Quảng Ninh kiến tạo tương lai bằng chính những giá trị đã được hun đúc qua thời gian - một con đường phát triển đòi hỏi bản lĩnh, tầm nhìn và sự kiên định, nhưng cũng mở ra dư địa tăng trưởng bền vững và đẳng cấp cho nhiều thập kỷ tới", PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh.
❃ ❃ ❃
- Thưa PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng, từ kinh nghiệm quốc tế và đặt trong bối cảnh mới hiện nay, kinh tế di sản cần được hiểu và tiếp cận như thế nào cho đúng bản chất?
PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng: Kinh tế di sản (Heritage economy) là một lĩnh vực kinh tế đặc thù mà bản chất là tập trung vào việc sử dụng, khai thác các tài sản văn hóa, lịch sử, tự nhiên để tạo ra giá trị kinh tế, nhưng phải luôn đảm bảo đặt trong khuôn khổ bảo tồn và phát triển bền vững. Khi được vận hành đúng cách, kinh tế di sản vừa tạo ra cơ hội việc làm, vừa gia tăng giá trị cộng đồng, nâng cao nhận thức về văn hóa, đồng thời bảo vệ môi trường và duy trì bản sắc địa phương.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế di sản chính là nỗ lực đưa di sản trở thành một phần gắn kết với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, từ đó biến các giá trị văn hóa, lịch sử và thiên nhiên thành nguồn lực động, có thể tạo ra tăng trưởng bền vững, đóng góp trực tiếp vào phát triển địa phương và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
- Với những giá trị nổi bật toàn cầu, ngày 12/7/2025, tại kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản thế giới (UNESCO) tổ chức tại Cộng hòa Pháp đã công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc thuộc tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Bắc Ninh và TP. Hải Phòng là Di sản Văn hóa thế giới. Đây là di sản thế giới thứ 9 ở Việt Nam được UNESCO công nhận và là di sản thế giới liên tỉnh thứ 2 ở Việt Nam sau Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà. Theo ông, sự kiện có ý nghĩa như thế nào đối với chiến lược phát triển kinh tế di sản của Quảng Ninh nói riêng?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Nếu nhìn riêng trong không gian phát triển của Quảng Ninh, việc Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO ghi danh rõ ràng mang ý nghĩa đặc biệt. Sự kiện này đã góp phần tái định vị vai trò của di sản trong mô hình tăng trưởng của địa phương, khi lần đầu tiên một quần thể di sản có quy mô liên vùng, gắn kết cả giá trị văn hóa, lịch sử lẫn tâm linh, được công nhận ở tầm quốc tế. Đây không chỉ là sự tôn vinh mang tính biểu tượng, mà còn là sự xác lập một cách chính thức và có giá trị quốc tế đối với giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể di sản, qua đó củng cố thêm vị thế của Quảng Ninh trên bản đồ di sản thế giới.
Lễ đón nhận Bằng UNESCO ghi danh Quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc diễn ra ngày 20/12/2025, tôn vinh một không gian di sản theo chuỗi đầu tiên của Việt Nam, lan tỏa giá trị Phật giáo Trúc Lâm.
Ở khía cạnh kinh tế di sản, danh hiệu UNESCO trở thành một "đòn bẩy" mạnh mẽ, nâng tầm thương hiệu điểm đến và mở rộng khả năng tiếp cận các thị trường khách quốc tế chất lượng cao. Đồng thời, thu hút sự quan tâm của các dòng vốn đầu tư dài hạn, bền vững. Hơn nữa, sự ghi danh này còn tạo ra một nền tảng chiến lược để Quảng Ninh tái cấu trúc toàn bộ không gian và cơ chế vận hành kinh tế di sản. Từ việc sắp xếp các khu di sản theo mô hình quản trị bài bản, chuyên nghiệp đến việc thiết lập các chuỗi trải nghiệm, sản phẩm du lịch và dịch vụ sáng tạo liên kết giữa di sản vật thể và phi vật thể, địa phương đang từng bước phát triển kinh tế di sản theo hướng bền vững, có chiều sâu, đồng thời giữ vững bản sắc văn hóa và giá trị lâu dài cho cộng đồng.
- Nếu ví Quảng Ninh như một dòng chảy di sản đồ sộ, thì Yên Tử, với chiều sâu lịch sử, giá trị tôn giáo và triết lý sống gắn liền với Phật hoàng Trần Nhân Tông, có lẽ chính là một "viên ngọc" đặc biệt trong dòng chảy ấy. Theo ông, Yên Tử đã và đang góp phần như thế nào trong việc khẳng định vị thế, tái hiện tầm vóc và định hình cấu trúc kinh tế di sản của Quảng Ninh?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Nếu nhìn trong tổng thể cấu trúc kinh tế di sản của Quảng Ninh, có thể xem Yên Tử là "mắt xích" chiến lược và trục dẫn dắt tinh thần của toàn bộ không gian di sản của tỉnh.
Yên Tử gắn liền với sự ra đời, lan tỏa và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm, dòng Phật giáo do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, mang đậm bản sắc Việt Nam, đề cao tinh thần nhập thế, hòa hợp đạo và đời, hướng con người tới các giá trị chân - thiện - mỹ, khuyến khích trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Chính chiều sâu lịch sử, tôn giáo và triết lý sống gắn với Phật hoàng Trần Nhân Tông khiến Yên Tử mang trong mình những giá trị đặc biệt mà không một di sản nào có thể sao chép hay thay thế. Yên Tử đại diện cho lớp giá trị cốt lõi và bền vững nhất của kinh tế di sản Quảng Ninh, đó là lớp giá trị dựa trên tư tưởng, triết lý và bản sắc văn hóa. Nếu Vịnh Hạ Long là kỳ quan của thiên nhiên, thì Yên Tử có thể được nhìn nhận như kỳ quan của tinh thần, nơi kết tinh tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm mang đậm bản sắc Việt. Chính sự kết hợp hài hòa giữa giá trị vật thể và phi vật thể ấy đã tạo cho Yên Tử một vị trí độc lập nhưng đồng thời có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cấu trúc kinh tế di sản của tỉnh.





Yên Tử gắn liền với sự ra đời, lan tỏa và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm, dòng Phật giáo do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, mang đậm bản sắc Việt Nam, đề cao tinh thần nhập thế, hòa hợp đạo và đời, hướng con người tới các giá trị chân - thiện - mỹ, khuyến khích trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.
Về mặt cấu trúc phát triển, Yên Tử được định vị như một trung tâm giá trị nguồn, từ đó hình thành và dẫn dắt các chuỗi sản phẩm kinh tế di sản có chiều sâu như du lịch văn hoá - tâm linh chất lượng cao, trải nghiệm thiền - dưỡng sinh, giáo dục triết lý sống, nghiên cứu văn hóa - tôn giáo, cũng như các sản phẩm sáng tạo gắn với Phật giáo Trúc Lâm. Đây là những dòng giá trị được bồi đắp theo thời gian, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Yên Tử còn đóng vai trò như một "la bàn" định hướng cho cách Quảng Ninh phát triển kinh tế di sản. Việc đặt Yên Tử ở vị trí trung tâm không gian tinh thần giúp tỉnh tránh rơi vào mô hình khai thác di sản thuần túy theo số lượng, thay vào đó là hướng tới chất lượng trải nghiệm, chiều sâu văn hóa và giá trị nhân văn. Từ Yên Tử, các di sản khác được kết nối trong một chỉnh thể hài hòa, vừa phát huy giá trị riêng, vừa góp phần làm dày thêm bản sắc chung của Quảng Ninh.
- Để Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn Kiếp Bạc trở thành di sản văn hóa thế giới, ba địa phương Quảng Ninh, Bắc Ninh và TP. Hải Phòng đã trải qua hành trình 13 năm (kể từ năm 2012) nỗ lực kiên trì đối thoại và giải trình. Theo ông, chặng đường đặc biệt ấy phản ánh điều gì?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Nếu chỉ nhìn chặng đường hơn 1 thập kỷ kiên trì để Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO ghi danh như một nỗ lực thuần túy, thì chắc hẳn chưa chạm tới chiều sâu của vấn đề. Đây là cả một quá trình trưởng thành về tư duy tiếp cận di sản, cho thấy các địa phương liên quan, đặc biệt là Quảng Ninh đã sẵn sàng bước vào giai đoạn mới, theo đó, di sản được nhìn nhận và tiếp cận như một giá trị sống, đòi hỏi nghiên cứu nghiêm túc, lập luận khoa học, quản trị dài hạn và một cam kết bền bỉ để vừa gìn giữ, vừa phát huy giá trị cho hiện tại và tương lai.
Đây cũng là quá trình các địa phương từng bước định hình và chứng minh giá trị nổi bật toàn cầu của quần thể di sản, không chỉ bằng cảm nhận hay niềm tự hào lịch sử, mà bằng hệ thống luận cứ chặt chẽ về lịch sử, tôn giáo, cảnh quan, triết lý và tính liên kết không gian. Việc thuyết phục UNESCO cũng chính là quá trình tự soi chiếu lại di sản của mình trong hệ quy chiếu toàn cầu, từ đó nâng cao chuẩn mực bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị di sản theo thông lệ quốc tế.
Chặng đường này phản ánh năng lực hợp tác liên vùng và sự đồng thuận chính sách hiếm có giữa các địa phương. Việc 3 địa phương cùng theo đuổi một hồ sơ trong suốt hơn 1 thập kỷ cho thấy sự vượt lên trên tư duy cục bộ, hướng tới lợi ích dài hạn và giá trị chung. Đây là điều kiện rất quan trọng để phát triển kinh tế di sản theo không gian mở, nơi di sản không bị chia cắt bởi ranh giới hành chính, mà được nhìn nhận như một chỉnh thể văn hóa - lịch sử thống nhất.
Quan trọng hơn cả, hành trình ấy phản ánh một cam kết phát triển có trách nhiệm. Bởi việc theo đuổi danh hiệu UNESCO còn là sự chấp nhận tuân thủ những chuẩn mực cao về bảo tồn, quản trị, kiểm soát phát triển và cân bằng giữa khai thác với gìn giữ.
- Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, khi di sản được đặt trong một chiến lược phát triển có chiều sâu, không chỉ tạo ra sức hút đầu tư dài hạn mà còn hình thành cơ chế tự sàng lọc dòng vốn. Nhìn từ các mô hình kinh tế di sản trên thế giới, theo ông, vì sao phát triển di sản lại có thể trở thành một công cụ hiệu quả trong việc định hướng và nâng cao chất lượng dòng vốn thay vì chỉ đơn thuần là yếu tố bổ trợ cho phát triển?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ khi di sản được đặt trong một chiến lược phát triển có chiều sâu, nó trở thành khung giá trị và chuẩn mực phát triển chi phối toàn bộ không gian kinh tế. Chính khung giá trị ấy khiến di sản có khả năng định hướng và sàng lọc dòng vốn một cách tự nhiên.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các mô hình kinh tế di sản thành công đều thiết lập rất rõ "luật chơi" ngay từ đầu: Đâu là những giá trị bất khả xâm phạm, đâu là giới hạn phát triển, và nhà đầu tư phải thích nghi như thế nào nếu muốn tham gia? Khi những ranh giới này được thể chế hóa nhất quán thông qua quy hoạch, chính sách và cơ chế quản trị, di sản tự thân trở thành một bộ lọc mềm. Những dòng vốn ngắn hạn, chạy theo lợi nhuận nhanh hoặc có nguy cơ phá vỡ cảnh quan, bản sắc sẽ tự rút lui; trong khi các nhà đầu tư dài hạn, có năng lực quản trị, tôn trọng văn hóa và hướng tới phát triển bền vững sẽ chủ động tìm đến.
Ở Florence (Ý), thành phố này tận dụng câu chuyện di sản Phục Hưng để thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực thời trang cao cấp, thủ công tinh xảo, du lịch văn hóa và nghệ thuật. Ngược lại, các dự án công nghiệp nặng hay phát triển đô thị phá vỡ cảnh quan lịch sử gần như không thể tiếp cận. Di sản, trong trường hợp này, vận hành như một bộ lọc đầu tư hiệu quả, không cần đến thể chế.
Tương tự, Kyoto (Nhật Bản) hướng tới bảo tồn nghiêm ngặt không gian di sản, kiến trúc truyền thống và các giá trị tinh thần gắn với Phật giáo - Thần đạo. Ranh giới về văn hóa đã khiến Kyoto không thu hút đầu tư đại trà, mà chủ yếu đón nhận các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch chất lượng cao, giáo dục, công nghiệp sáng tạo và công nghệ thân thiện môi trường. Những tập đoàn lớn khi vào Kyoto buộc phải điều chỉnh thiết kế, quy mô và cách vận hành để hài hòa với di sản, qua đó hình thành dòng vốn dài hạn, ổn định và có trách nhiệm.
- Với Yên Tử, như chuyên gia đã chia sẻ, điểm cốt lõi của di sản không chỉ nằm ở hệ thống di tích hay cảnh quan, mà còn ở những giá trị vô hình như tinh thần Phật giáo Trúc Lâm, chiều sâu lịch sử dân tộc, triết lý sống hài hòa với tự nhiên. Vậy, Yên Tử đang và có thể tạo ra những thay đổi cụ thể như thế nào trong việc định hướng và thu hút dòng vốn của Quảng Ninh, thưa chuyên gia?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Những giá trị vô hình mà Yên Tử sở hữu thực sự là "lõi" tạo nên sức hấp dẫn bền vững, không chỉ đối với khách du lịch mà còn đối với các nhà đầu tư.
Yên Tử đóng vai trò như một " thỏi nam châm" định hướng dòng vốn chất lượng cao vào Quảng Ninh thông qua việc định hình lại kỳ vọng của nhà đầu tư. Khi một không gian phát triển được neo giữ bởi những giá trị tinh thần sâu sắc vốn đề cao sự hài hòa và bền vững thì ngay từ đầu, các nhà đầu tư đã buộc phải điều chỉnh tư duy, không thể tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn, không thể phát triển theo logic đánh nhanh, thắng nhanh. Thay vào đó là tư duy đầu tư dài hạn, coi giá trị văn hóa, cảnh quan và cộng đồng là một phần của tài sản đầu tư. Chính sự "tự điều chỉnh" này giúp Quảng Ninh sàng lọc được những nhà đầu tư có cùng hệ giá trị với định hướng phát triển của tỉnh, loại trừ những dòng vốn không phù hợp, như đầu tư công nghiệp nặng hay các dự án phá vỡ cảnh quan, từ đó bảo vệ giá trị nguyên bản của di sản.
Bên cạnh đó, Yên Tử tạo ra khung giá trị dẫn dắt mô hình đầu tư. Các dự án xoay quanh Yên Tử, dù là du lịch, dịch vụ, nghỉ dưỡng hay giáo dục - đào tạo, đều phải đặt trong một hệ quy chiếu tôn trọng cảnh quan, tiết chế mật độ xây dựng, ưu tiên trải nghiệm chiều sâu hơn là khai thác đại trà. Điều này khiến dòng vốn chảy vào không còn là vốn "thô", mà là vốn gắn với tri thức, sáng tạo, quản trị tinh tế và trách nhiệm xã hội cao. Về bản chất, đây chính là dòng vốn mà các mô hình kinh tế di sản thành công trên thế giới luôn hướng tới.
Ngoài ra, di sản này góp phần tái cấu trúc hệ sinh thái kinh tế địa phương. Khi di sản trở thành trung tâm hút vốn, các ngành phụ trợ cũng chuyển dịch theo từ sản phẩm lưu niệm mang tính sao chép sang sản phẩm thủ công có câu chuyện; từ dịch vụ du lịch thuần túy sang dịch vụ trải nghiệm văn hóa, thiền định, giáo dục tinh thần; từ lao động giản đơn sang lao động có kỹ năng, hiểu biết văn hóa. Điều này tạo ra hiệu ứng lan tỏa, khiến mỗi đồng vốn đầu tư không chỉ sinh lợi cho doanh nghiệp mà còn nâng cấp cấu trúc kinh tế và chất lượng nguồn nhân lực địa phương.
Và nếu nhìn trong dài hạn, Yên Tử đang góp phần giúp Quảng Ninh xây dựng uy tín thể chế trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Một địa phương kiên định với bảo tồn di sản, nhất quán trong thông điệp phát triển bền vững và sẵn sàng nói "không" với những dự án không phù hợp, sẽ tạo ra niềm tin rất lớn. Niềm tin ấy chính là nền tảng để thu hút dòng vốn chất lượng cao, ổn định và gắn bó lâu dài, điều mà không phải địa phương nào cũng làm được.
- Được ví như "Việt Nam thu nhỏ", Quảng Ninh không chỉ sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, mà còn là một vùng đất giàu giá trị văn hóa, lịch sử với hệ thống các di sản phong phú, độc đáo. Từ lợi thế rất đặc biệt này, trong nhiều năm qua, Quảng Ninh rất đã tích cực, chủ động khai thác giá trị của di sản làm nền tảng cho phát triển bền vững, trong đó phát triển kinh tế di sản chính là một trong các nỗ lực lớn của tỉnh nhằm đưa di sản gắn liền với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Một cách tổng quát, chuyên gia nhìn nhận hướng đi này như thế nào?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Xét trên trường hợp của Quảng Ninh, có thể hình dung hệ giá trị di sản của địa phương này như một dòng chảy lớn, được bồi đắp qua hàng nghìn năm với những lớp trầm tích văn hóa và thiên nhiên phong phú, lâu đời. Trong dòng chảy ấy, mỗi di sản giống như những nhánh nhỏ đan xen, bổ trợ lẫn nhau, tạo nên một cấu trúc liên kết đa tầng, vừa độc lập vừa mang tính liên kết cao, góp phần làm giàu thêm giá trị tổng thể của kho tàng di sản Quảng Ninh.





Được ví như "Việt Nam thu nhỏ", Quảng Ninh không chỉ sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh đẹp mà còn là một vùng đất giàu giá trị văn hóa, lịch sử với hệ thống các di sản phong phú, độc đáo.
Và rõ ràng, với những tiềm năng đặc biệt ấy, việc Quảng Ninh chủ động lựa chọn phát triển kinh tế di sản không chỉ là một hướng đi đúng đắn, mà còn là một bước đi thể hiện rõ bản lĩnh, tầm nhìn và sự trưởng thành trong tư duy phát triển của địa phương.
Quan trọng hơn, lựa chọn kinh tế di sản cho thấy Quảng Ninh không chạy theo những mô hình phát triển đại trà hay lặp lại kinh nghiệm của các địa phương khác, mà đang chủ động kiến tạo một con đường riêng, phù hợp với điều kiện và lợi thế đặc thù của mình.
Trên con đường ấy, di sản trở thành mạch nguồn xuyên suốt, định hình cách thức quy hoạch, thu hút đầu tư, tổ chức không gian phát triển và phân bổ nguồn lực. Định hướng này hòa nhịp hoàn toàn với Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, khi nhấn mạnh khai thác hiệu quả, có trách nhiệm các giá trị di sản và đặt di sản văn hóa vào vị trí nền tảng, trụ cột để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ sáng tạo và du lịch chất lượng cao.
- Ông vừa dùng hai chữ "bản lĩnh" để nói về lựa chọn phát triển kinh tế di sản của Quảng Ninh. Điều đó dường như chứa đựng hàm ý rằng đây không phải là con đường dễ đi. Phải chăng, phía sau quyết định này là rất nhiều thách thức mà địa phương buộc phải đối diện?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Phát triển kinh tế di sản, xét đến cùng, là một hướng đi khó, bởi nó đặt địa phương trước những bài toán không hề đơn giản, thậm chí nhiều khi là những lựa chọn mang tính đánh đổi. Đây không phải con đường tạo ra lợi ích nhanh và dễ thấy như khai thác tài nguyên hay các dự án tăng trưởng ngắn hạn. Kinh tế di sản đòi hỏi tầm nhìn dài hạn, sự kiên định và khả năng chấp nhận đi chậm để đi xa. Mỗi quyết định liên quan đến khai thác di sản đều phải cân nhắc rất kỹ giữa lợi ích kinh tế trước mắt và việc giữ gìn các giá trị cốt lõi, vốn là tài sản không thể tái tạo. Chỉ cần đi quá giới hạn, di sản có thể bị tổn thương và khi đó cái giá phải trả sẽ lớn hơn rất nhiều so với lợi ích thu được.
Bên cạnh đó, lựa chọn này cho thấy Quảng Ninh cũng phải đối mặt với sức ép phát triển rất lớn, vì đây vốn là một địa phương năng động, từng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên công nghiệp, nhu cầu tăng trưởng, tạo việc làm, thu ngân sách luôn hiện hữu. Trong bối cảnh đó, việc chủ động chuyển hướng sang phát triển kinh tế di sản đồng nghĩa với việc chấp nhận từ bỏ một số "lối mòn" quen thuộc, thậm chí phải kiềm chế những dự án có thể mang lại lợi ích kinh tế nhanh nhưng tiềm ẩn rủi ro đối với môi trường và di sản.
Ngoài ra, phát triển kinh tế di sản còn đòi hỏi năng lực quản trị rất cao. Không chỉ là bảo tồn hay khai thác, mà là tổ chức lại không gian phát triển, điều tiết dòng khách, phân bổ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, đồng thời giữ được sự tôn nghiêm, chiều sâu văn hóa của di sản. Đây là bài toán phức hợp, nếu thiếu bản lĩnh chính sách và sự nhất quán trong điều hành, rất dễ rơi vào tình trạng thương mại hóa quá mức.
Chính vì vậy, lựa chọn phát triển kinh tế di sản của Quảng Ninh thể hiện một bản lĩnh phát triển rõ nét rằng địa phương dám đi vào con đường khó, dám chấp nhận áp lực ngắn hạn để xây dựng lợi thế dài hạn, và dám đặt những giá trị bền vững ngang hàng với các chỉ tiêu kinh tế. Đó chính là sự tự tin vào năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển của địa phương trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các vùng, các điểm đến.
- Thưa chuyên gia, ông vừa ví von giá trị di sản của Quảng Ninh như một dòng chảy lớn với nhiều nhánh nhỏ đan xen, bổ trợ cho nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, để dòng chảy ấy có thể thực sự thông suốt và duy trì sức sống bền bỉ, chỉ dựa sự phong phú và dồi dào của các di sản là chưa đủ, điều then chốt là cách các giá trị này được chuyển hoá và phân bổ một cách hợp lý trong không gian phát triển. Chuyên gia có nghĩ như vậy không?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Đúng như vậy. Thực tế đã chỉ ra rằng, di sản chỉ thực sự trở thành nguồn lực kinh tế bền vững khi có những "mạch dẫn" đủ mạnh và linh hoạt, giúp chuyển hóa giá trị tiềm ẩn thành giá trị hiện thực, đồng thời bảo vệ trọn vẹn bản chất gốc của di sản.
Nói cách khác, sự phong phú và đa dạng của di sản là nền tảng, nhưng bền vững thực sự nằm ở cách những giá trị ấy được liên kết, khai thác có trọng tâm và phân bổ hợp lý trong không gian phát triển.
Khi các "mạch dẫn" này vận hành trơn tru, di sản trở thành dòng chảy năng động, vừa giữ được nét độc bản, vừa tạo ra giá kinh tế, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng sống, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa và củng cố vị thế cạnh tranh của địa phương.
- Khi ông nhắc đến "mạch dẫn", có thể hiểu đây là những cơ chế, chiến lược và cách thức quản trị giúp Quảng Ninh vận hành và phát triển kinh tế di sản một cách bền vững? Ông có thể lý giải rõ hơn bản chất của những "mạch dẫn" này trong thực tiễn phát triển của địa phương?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Đúng vậy. "Mạch dẫn" ở đây có thể hiểu là tổng hòa các yếu tố từ tư duy phát triển, cơ chế chính sách đến năng lực quản trị, đóng vai trò chuyển hóa các giá trị di sản tiềm ẩn thành những giá trị kinh tế, xã hội và văn hóa hiện thực. Một dòng chảy di sản chỉ thực sự bền vững khi nó không bị khai thác một cách tự phát, ngắn hạn, mà được dẫn dắt, định hướng để vừa tạo ra giá trị kinh tế, vừa bảo toàn được bản sắc và chiều sâu vốn có.
Trước hết, đó là tư duy phát triển đặt di sản ở trung tâm chiến lược. Quảng Ninh không coi di sản đơn thuần là yếu tố bổ trợ cho các hoạt động kinh tế, mà xem chúng như nguồn lực phát triển cốt lõi, có khả năng dẫn dắt và định hình các hoạt động kinh tế phát triển xoay quanh, trên cơ sở tôn trọng và giữ gìn giá trị gốc.
Điều này có nghĩa là mọi quyết sách bao gồm quy hoạch, đầu tư, quản lý đều xoay quanh việc bảo tồn và phát huy giá trị gốc của di sản, thay vì khai thác tức thời, ngắn hạn. Khi di sản được đặt ở vị trí trung tâm, tỉnh khai thác được các giá trị độc bản, khó thay thế, mang chiều sâu lịch sử và văn hóa của di sản. Ví dụ, Vịnh Hạ Long được định vị không đơn thuần là điểm đến du lịch mà được quản lý, khai thác dưới mô hình "kỳ quan xanh" với các quy định nghiêm ngặt về bảo tồn cảnh quan, môi trường, đồng thời phát triển các dịch vụ du lịch chất lượng cao. Chính cách làm này giúp tỉnh vừa bảo tồn giá trị thiên nhiên độc bản, vừa biến Vịnh Hạ Long thành nguồn thu bền vững, tạo việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch quốc tế.
Tiếp theo là tính liên kết trong không gian phát triển. Quảng Ninh đã từng bước kết nối những di sản lớn như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng với hệ thống di sản phi vật thể, lễ hội, làng nghề, không gian văn hóa bản địa,… Qua đó hình thành những chuỗi trải nghiệm liền mạch cả về không gian và thời gian. Sự liên kết này đã làm thay đổi căn bản cách thức khai thác di sản, khi giá trị không còn dừng lại ở doanh thu tức thời tại một điểm, mà được lan tỏa dọc theo toàn bộ hành trình trải nghiệm của du khách. Khi tham gia các tuyến liên kết, du khách không chỉ tham quan mà còn lưu trú lâu hơn, tiêu dùng nhiều hơn, tham gia sâu hơn vào các hoạt động văn hóa, sáng tạo và đời sống bản địa, từ đó gia tăng giá trị chi tiêu và giữ lại dòng tiền trong nền kinh tế địa phương.
Sự kết nối giữa di sản vật thể và phi vật thể đã giúp chuyển dịch mô hình phát triển từ khai thác đơn điểm sang hình thành chuỗi giá trị kinh tế di sản theo chiều sâu, nơi mà các doanh nghiệp, cộng đồng và nghệ nhân cùng tham gia và cùng hưởng lợi. Thông qua các chuỗi giá trị này, di sản không chỉ được bảo tồn tốt hơn nhờ có nguồn lực tái đầu tư, mà còn trở thành nền tảng tạo sinh kế bền vững cho người dân, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa và nâng cao sức hấp dẫn cạnh tranh của Quảng Ninh như một không gian kinh tế di sản có chiều sâu, thay vì chỉ là một tập hợp các điểm đến du lịch đơn lẻ.
Cuối cùng, là năng lực điều tiết thông qua cơ chế, chính sách và mô hình quản trị linh hoạt. Thay vì áp dụng những khuôn mẫu cứng nhắc, địa phương đã chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách và mô hình quản lý theo hướng cân bằng, bảo tồn và phát triển bổ trợ cho nhau.
Trong cách tiếp cận đó, đầu tư được khuyến khích như một động lực quan trọng để khai mở giá trị di sản, nhưng không phải bằng mọi giá và càng không đánh đổi các giá trị cốt lõi. Sáng tạo được trao không gian để phát huy, song luôn vận hành trong những hành lang an toàn về bảo vệ cảnh quan, văn hóa và giá trị lịch sử. Có thể nói, năng lực điều tiết thông minh này chính là yếu tố giúp kinh tế di sản của Quảng Ninh vận hành ổn định, bền bỉ và không tự bào mòn chính nguồn lực làm nên sức mạnh của mình.
Khi các "mạch dẫn" hội tụ, di sản trở thành nguồn lực động, liên tục được tái tạo thông qua trải nghiệm, tri thức và sáng tạo, giúp Quảng Ninh chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ dựa trên số lượng sang dựa trên chất lượng, từ khai thác ngắn hạn sang phát triển bền vững. Ở chiều sâu hơn, chính cách dẫn dắt dòng chảy di sản này đang từng bước định vị Quảng Ninh như một trung tâm kinh tế di sản có khả năng kết nối khu vực và quốc tế, nơi bảo tồn là nền tảng, sáng tạo là động lực và cộng đồng là hạt nhân của phát triển.
- Theo chuyên gia, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đầu tư tại Quảng Ninh nên được định hình ra sao, để vừa đóng góp hiệu quả cho phát triển kinh tế, vừa đồng hành lâu dài trong việc bảo tồn, tái tạo và lan tỏa giá trị di sản cho các thế hệ mai sau?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đây cần được đặt trong một khuôn khổ rộng hơn và sâu hơn so với cách hiểu truyền thống. Cần được hiểu đây là một nghĩa vụ đồng kiến tạo, chứ không chỉ là tuân thủ tối thiểu các quy định pháp luật. Trong bối cảnh đó, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trước hết là sự thấu hiểu và tôn trọng giới hạn của di sản. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp khi bước vào Quảng Ninh phải tiếp cận bằng tri thức, bằng sự lắng nghe và bằng tinh thần đồng hành với địa phương, coi việc bảo tồn cảnh quan, không gian tâm linh và hệ sinh thái là điều kiện tiên quyết để tạo ra giá trị kinh tế bền vững, chứ không phải là rào cản cho tăng trưởng.
Trách nhiệm xã hội cần được nâng lên thành quá trình đồng kiến tạo giá trị. Doanh nghiệp không chỉ khai thác những giá trị đã có, mà cần tham gia vào việc tái tạo và làm giàu thêm các lớp giá trị di sản của Quảng Ninh, bao gồm gìn giữ không gian linh thiêng, hỗ trợ cộng đồng địa phương, cho đến đầu tư vào các sản phẩm du lịch dựa trên tri thức, trải nghiệm và chiều sâu văn hóa. Khi đó, giá trị kinh tế tạo ra không đối nghịch với di sản, mà được nuôi dưỡng chính từ di sản.
Từ góc độ dài hạn, tôi cho rằng Quảng Ninh đang đặt ra yêu cầu về một chuẩn mực đầu tư mới. Doanh nghiệp thành công tại đây sẽ là doanh nghiệp hiểu rằng uy tín, thương hiệu và khả năng tồn tại bền vững của mình gắn liền với cách họ ứng xử với di sản. Sự tiết chế trong quy mô, sự tinh tế trong thiết kế và sự bền bỉ trong cách vận hành chính là nền tảng để doanh nghiệp đồng hành cùng Quảng Ninh qua nhiều thế hệ.
- Trong bối cảnh các yêu cầu về chuyển đổi xanh, trung hòa carbon và phát triển bền vững đang trở thành chuẩn mực mới trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Với những vùng từng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên như Quảng Ninh, chuyên gia nhìn nhận kinh tế di sản có thể đóng vai trò như thế nào trong chiến lược tăng trưởng xanh của địa phương, nhất là khi bản thân di sản luôn gắn chặt với hệ sinh thái tự nhiên, không gian văn hóa và bản sắc cộng đồng?
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Trong bối cảnh hiện nay, kinh tế di sản không chỉ nên được xem là một lĩnh vực mang tính bổ trợ, mà cần được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng của chiến lược tăng trưởng xanh, đặc biệt đối với những địa phương từng dựa nhiều vào khai thác tài nguyên như Quảng Ninh.
Về bản chất, kinh tế di sản là một mô hình tăng trưởng ít phát thải và tiết kiệm tài nguyên. Khác với các ngành khai thác truyền thống vốn tiêu hao mạnh tài nguyên hữu hình và tạo áp lực lớn lên môi trường, kinh tế di sản dựa trên việc khai thác các giá trị như cảnh quan, lịch sử, văn hóa, tri thức bản địa và hệ sinh thái tự nhiên. Khi được quản trị đúng cách, các giá trị này không những không bị cạn kiệt mà còn có thể được tái tạo và gia tăng theo thời gian thông qua bảo tồn, sáng tạo và trải nghiệm. Đây chính là nền tảng giúp Quảng Ninh từng bước dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên sang mô hình dựa trên giá trị, chất lượng và chiều sâu - một sự chuyển dịch mang tính cấu trúc chứ không chỉ là điều chỉnh về kỹ thuật hay công nghệ.
- Ông vừa nhấn mạnh đến tính "chuyển dịch cấu trúc" và vai trò trung tâm của di sản. Vậy trên thực tế, khi kinh tế di sản được đặt ở vị trí trung tâm, nó tác động như thế nào đến bảo vệ hệ sinh thái, cấu trúc sinh kế và năng lực cạnh tranh dài hạn của Quảng Ninh trong chiến lược tăng trưởng xanh?
PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng: Khi di sản được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, nó tạo ra một cơ chế tự điều chỉnh rất mạnh mẽ. Theo đó, kinh tế di sản tạo ra động lực nội sinh cho chuyển đổi xanh, bởi nó buộc các hoạt động phát triển phải tôn trọng sức chịu tải của tự nhiên và không gian văn hóa. Khi di sản được đặt ở vị trí trung tâm, các quyết định về quy hoạch, đầu tư, xây dựng và vận hành không thể chạy theo tăng trưởng nóng, mà phải hướng tới tiết chế, hài hòa và cân bằng. Điều này giúp Quảng Ninh từng bước dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên sang mô hình dựa trên giá trị, chất lượng và chiều sâu một chuyển dịch mang tính cấu trúc chứ không chỉ là thay đổi kỹ thuật.
Kinh tế di sản gắn chặt với bảo tồn hệ sinh thái và đa dạng sinh học, vốn là nền tảng của tăng trưởng xanh của Quảng Ninh.
Không chỉ vậy, kinh tế di sản gắn chặt với bảo tồn hệ sinh thái và đa dạng sinh học, vốn là nền tảng của tăng trưởng xanh. Những không gian như Vịnh Hạ Long, Yên Tử hay các khu di sản văn hóa - tâm linh không thể tồn tại tách rời môi trường tự nhiên. Vì vậy, bảo vệ rừng, nguồn nước, cảnh quan và môi trường sinh thái không chỉ là yêu cầu môi trường, mà trở thành điều kiện sống còn của kinh tế di sản. Khi lợi ích kinh tế gắn trực tiếp với chất lượng hệ sinh thái, địa phương sẽ có thêm động lực mạnh mẽ để đầu tư cho bảo tồn, phục hồi và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Ở chiều cạnh xã hội, kinh tế di sản góp phần xanh hóa cấu trúc sinh kế và nâng cao vai trò của cộng đồng bản địa. Thay vì các mô hình sản xuất gây ô nhiễm hoặc phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, kinh tế di sản thúc đẩy các ngành nghề dựa trên tri thức, kỹ năng và sáng tạo như du lịch trải nghiệm, thủ công truyền thống, dịch vụ văn hóa, giáo dục và chăm sóc sức khỏe tinh thần. Điều này không chỉ giảm áp lực môi trường mà còn tạo ra việc làm bền vững, giữ gìn bản sắc và tăng khả năng chống chịu của cộng đồng trước các cú sốc kinh tế - môi trường.
Trong dài hạn, kinh tế di sản giúp Quảng Ninh định vị hình ảnh một địa phương tiên phong trong tăng trưởng xanh có bản sắc. Khi di sản trở thành trụ cột phát triển, Quảng Ninh không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn xanh toàn cầu, mà còn kể được một câu chuyện phát triển rất riêng: Chuyển đổi từ "nâu" sang "xanh" dựa trên giá trị văn hóa, lịch sử và con người. Chính câu chuyện đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh khác biệt, thu hút dòng vốn xanh, dòng vốn có trách nhiệm và những đối tác phát triển dài hạn, phù hợp với mục tiêu bền vững của địa phương.
Nói cách khác, kinh tế di sản không đứng bên lề chiến lược tăng trưởng xanh, mà hoàn toàn có thể trở thành xương sống của quá trình chuyển đổi, nơi bảo tồn là nền tảng, xanh hóa là phương thức và phát triển bền vững là đích đến.
- Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng với những gợi mở, phân tích sâu sắc về vai trò trung tâm của kinh tế di sản trong tiến trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cũng như cách Quảng Ninh có thể khai mở và dẫn dắt dòng chảy di sản như một nguồn lực phát triển bền vững trong bối cảnh các chuẩn mực xanh đang trở thành xu thế toàn cầu.
Từ "mắt xích" chiến lược Yên Tử đến nền tảng di sản phong phú, tầm nhìn phát triển nhất quán và những chiến lược kinh tế di sản được định hình bài bản, đồng thời có sự đồng hành ngày càng rõ nét của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội, Quảng Ninh hoàn toàn có cơ sở để hiện thực hóa quá trình chuyển đổi từ "nâu" sang "xanh" theo cách riêng, giàu bản sắc. Qua đó, không chỉ nâng cao chất lượng tăng trưởng và đời sống cộng đồng, mà còn từng bước khẳng định vị thế của một trung tâm kinh tế di sản có tầm vóc khu vực và quốc tế - nơi bảo tồn là nền tảng, sáng tạo là động lực và phát triển bền vững là đích đến./.


