Theo Điều 622 Bộ luật Dân sự 2015, trong trường hợp không tồn tại người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, hoặc có người thừa kế nhưng họ không được quyền hưởng di sản hay từ chối nhận di sản, thì sau khi trừ đi các nghĩa vụ tài sản, phần di sản còn lại sẽ được chuyển giao cho Nhà nước.
Bên cạnh đó, Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định rõ về thời hiệu liên quan đến quyền thừa kế:
Thứ nhất, thời hạn để yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, tính từ thời điểm mở thừa kế.

Nếu đã hết thời hiệu thừa kế 30 năm mà không có người thừa kế đứng ra quản lý, di sản sẽ ưu tiên thuộc về người đang chiếm hữu hợp pháp; nếu không có người chiếm hữu, tài sản đương nhiên thuộc về Nhà nước. Ảnh minh họa
Khi thời hiệu kết thúc, di sản sẽ thuộc về người thừa kế đang trực tiếp quản lý khối di sản. Nếu không có ai quản lý, việc xử lý di sản được xác định như sau:
Di sản được chuyển cho người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự 2015, nếu việc chiếm hữu là phù hợp pháp luật.
Trường hợp không có người chiếm hữu hợp pháp, di sản sẽ thuộc về Nhà nước.
Thứ hai, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc phủ nhận quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thứ ba, thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là 03 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế.
Từ các quy định trên có thể thấy: đối với đất đai hoặc các loại bất động sản nói chung, nếu không có người nhận thừa kế, hoặc người thừa kế từ chối hưởng di sản, phần tài sản đó - sau khi hoàn tất các nghĩa vụ tài chính - sẽ được chuyển cho Nhà nước quản lý.
Ngoài ra, nếu đã hết thời hiệu thừa kế 30 năm mà không có người thừa kế đứng ra quản lý, di sản sẽ ưu tiên thuộc về người đang chiếm hữu hợp pháp; nếu không có người chiếm hữu, tài sản đương nhiên thuộc về Nhà nước.