
Bài 3: Rủi ro hiện hữu nếu dồn áp lực tăng trưởng kinh tế lên chính sách tiền tệ
Theo TS. Nguyễn Hữu Đại, Giảng viên Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng, để cân bằng bài toán lãi suất và thị trường bất động sản, cần "trả" chính sách tiền tệ về đúng chức năng nhiệm vụ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Để làm được điều này không chỉ cần những bước đi quyết liệt về chính sách mà còn cần sự đồng thuận, phối hợp nhịp nhàng từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Lời Tòa soạn
Trong nền kinh tế vĩ mô, dòng tiền được ví như "mạch máu nuôi dưỡng" của thị trường, và bất động sản luôn đóng vai trò "đầu tàu" kéo theo sự phát triển của hàng trăm ngành nghề khác. Thực tế cho thấy, mỗi khi lãi suất tăng mạnh, áp lực lập tức dồn lên nền kinh tế và đặc biệt là thị trường bất động sản, điển hình như giai đoạn 2010 – 2011 hay cuối năm 2022. Ngược lại, thời điểm lãi suất thấp và ổn định (2017 – 2019) đã chứng kiến một chu kỳ tăng trưởng mạnh mẽ, đưa bất động sản trở thành kênh đầu tư hấp dẫn bậc nhất. Dòng vốn giá rẻ vừa kích thích nhu cầu mua ở thực, vừa khơi dậy làn sóng đầu tư, khiến giao dịch sôi động và giá nhà đất liên tục leo thang.
Hiện nay, Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% và kỳ vọng hướng tới giai đoạn tăng trưởng hai con số. Song điều này cũng này đặt ra nhiều thách thức. Tín dụng mở rộng nhanh, cộng thêm áp lực lạm phát và biến động tỷ giá, buộc Ngân hàng Nhà nước phải điều hành chính sách tiền tệ hết sức thận trọng. Trong ngắn hạn, nếu mặt bằng lãi suất nhích lên, đây sẽ trở thành lực cản đáng kể đối với nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là bất động sản. Chi phí vay vốn tăng cao khiến cả người mua lẫn đơn vị phát triển dự án phải dè dặt trong quyết định của mình.
Nhận diện những thách thức này, Reatimes khởi đăng tuyến bài "Lãi suất ngân hàng trong bối cảnh mới và tác động đến thị trường bất động sản". Loạt bài sẽ phân tích những áp lực chi phối mặt bằng lãi suất, làm rõ tác động của việc tăng lãi suất đối với thị trường bất động sản nói chung và từng phân khúc cụ thể, đồng thời chỉ ra ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp và giới đầu tư.
Thời gian qua, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP và tín dụng, Ngân hàng Nhà nước duy trì định hướng điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng với mức lãi suất thấp nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều hệ lụy dần bộc lộ: Tăng trưởng tiền gửi chậm lại do lãi suất thấp, kéo theo chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tiền gửi ngày càng nới rộng. Từ đó, gây áp lực trở lại lên chính sách tiền tệ, khiến các cơ quan điều hành buộc phải tính đến việc nâng mặt bằng lãi suất để ổn định tăng trưởng.
Trong bối cảnh đó, việc làm thế nào để giữ cho lãi suất ở ngưỡng phù hợp nhằm đạt được sự hài hòa giữa các mục tiêu tăng trưởng trở thành bài toán nan giải, đòi hỏi sự quyết liệt của các cơ quan điều hành và sự phối hợp đồng bộ của các chính sách tài chính. Bên cạnh đó, để nâng cao “sức đề kháng” của nền kinh tế trước những biến động của lãi suất có thể xảy ra trong thời gian tới, nội lực của các doanh nghiệp, ngân hàng và người dân cũng cần được củng cố.
Xuất phát từ những yêu cầu này, Reatimes đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Hữu Đại, Giảng viên khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng nhằm đề xuất những hướng đi phù hợp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, hướng tới mục tiêu ổn định mặt bằng lãi suất, nâng cao sức chống chịu của doanh nghiệp và người dân trước mọi kịch bản.
- Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay và giai đoạn 2026 – 2030 đặt ra nhiều thách thức cho việc điều hành chính sách tiền tệ: Vừa phải thúc đẩy dư nợ tín dụng tăng trên 16% để tạo dư địa phát triển cho doanh nghiệp và kích thích nhu cầu tiêu dùng; vừa phải ổn định mặt lãi suất nhằm hạn chế rủi ro cho hệ thống tài chính và kiểm soát nguy cơ lạm phát. Theo ông, trong bối cảnh này, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần điều hành chính sách tiền tệ ra sao để vừa ổn định mặt bằng lãi suất, vừa hỗ trợ nền kinh tế nói chung thị trường bất động sản nói riêng?
TS. Nguyễn Hữu Đại: Trong 9 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng thận trọng, theo sát diễn biến của nền kinh tế trong nước và quốc tế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là dấu hiệu quá tải của dòng vốn tín dụng, trong đó điểm nhạy cảm nhất chính là lãi suất. Với mặt bằng lãi suất rất thấp như hiện tại, tôi cho rằng sẽ rất khó để giảm thêm, tuy nhiên vẫn có thể giữ nó ở một mức ổn định bằng việc điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt.
TS.Nguyễn Hữu Đại, Giảng viên Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện mua/bán giấy tờ có giá có kỳ hạn từ 7 - 14 ngày để thực hiện tăng/giảm cung tiền trong thời gian ngắn nhằm tác động trực tiếp lên lãi suất và tỷ lệ lạm phát. Trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn, một lượng tiền nhất định sẽ được bơm vào hệ thống, giúp thanh khoản trở nên dồi dào hơn, giúp ngân hàng thương mại tăng lượng tiền dự trữ và không cần vay mượn nhau quá nhiều, từ đó góp phần giảm lãi suất liên ngành và thu hẹp biên độ dao động của lãi suất quanh mức lãi suất điều hành trong ngắn hạn. Với việc lãi suất liên ngành được duy trì ở mức thấp, chi phí vốn tại các ngân hàng sẽ giảm xuống giúp ổn định mặt bằng lãi suất cho vay để tạo điều kiện hỗ trợ dòng vốn cho nền kinh tế mà không phá vỡ định hướng chung của chính sách tiền tệ hiện hữu. Đây chính là một công cụ điều hành “mềm dẻo” góp phần ổn định mặt bằng lãi suất một cách linh động theo diễn biến thị trường.
Bên cạnh sự tham gia của các cơ quan điều hành, chính các ngân hàng thương mại cũng cần chủ động hơn trong việc thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bằng cách tăng cường chuyển đổi số, tích cực phát triển thêm sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, kích thích thanh toán không dùng tiền mặt, tái cơ cấu nguồn huy động vốn dài hạn...
Đồng thời, tôi cho rằng để nâng cao hiệu quả của những nỗ lực ổn định mặt bằng lãi suất thì cần phải điều hướng dòng vốn chảy vào đúng hướng. Hiện nay, phần lớn dòng vốn tín dụng đổ vào các kênh tài sản có tính chất đầu cơ, dễ hình thành bong bóng tài sản. Đây là mối nguy khôn lường, có thể tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng: Gia tăng nợ xấu ngân hàng, thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, lạm phát... Vì thế, cần hướng dòng vốn tín dụng đi vào sản xuất, gắn tăng trưởng tín dụng với hiệu quả sản xuất và có cơ chế giám sát chặt chẽ để có những kết quả tăng trưởng thực chất.
Riêng với bất động sản, cần ưu tiên những phân khúc đáp ứng nhu cầu thực như cho vay mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ, đồng thời có cơ chế điều tiết để giảm dòng vốn vào các giao dịch mang tính đầu cơ. Mới đây, Bộ Xây dựng đã đề xuất áp dụng hạn mức cho vay từ giảm dần từ 50% - 30% đối với các khoản vay mua nhà thứ hai, thứ ba, cũng có thể coi là một trong những giải pháp "nắn dòng" vốn tín dụng.
Cùng với đó, cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm góp phần ngăn chặn hiện tượng “tín dụng đen” trong nền kinh tế. Đặc biệt, nên cân bằng cơ cấu cho vay, hạn chế việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, cũng như siết chặt tỷ lệ an toàn vốn ở các ngân hàng thương mại. Để làm được điều này, các ngân hàng phải chủ động nâng cao năng lực, củng cố nguồn vốn.
Ngoài dòng vốn tín dụng, cần phát triển thêm các kênh huy động vốn khác như cổ phiếu, trái phiếu... Chúng ta không thể dồn áp lực tăng trưởng kinh tế lên chính sách tiền tệ mà phải trả nó về đúng chức năng bình ổn kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ nới lỏng/thắt chặt tiền tệ một cách chủ động theo bối cảnh thị trường thay vì được vận hành để thúc đẩy tăng trưởng. Trong khi đó, để phát triển kinh tế bền vững thì nhất định phải để chính sách tài khóa dẫn đường và phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng với chính sách tiền tệ.
- Có thể thấy, dư địa điều hành chính sách tiền tệ hiện nay không còn nhiều. Vậy theo ông, phải làm thế nào để tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế bền vững từ việc điều hành chính sách tài khóa?
TS. Nguyễn Hữu Đại: Theo thông tin từ Kho bạc Nhà nước (Bộ Tài Chính), tính đến ngày 16/10, lũy kế thu ngân sách Nhà nước đạt hơn 2 triệu tỷ đồng, bằng 102,35% so với dự toán cả năm. Trong khi đó, chi thường xuyên đạt 77,8% dự toán, tương đương với 1,2 triệu tỷ đồng và chi đầu tư công đạt 49,3% kế hoạch, tương đương gần 420 nghìn tỷ đồng. Như vậy, dư địa tài khóa hiện nay vẫn còn nhiều và hoàn toàn có thể hỗ trợ cho chính sách tiền tệ trong việc điều hành nền kinh tế.
Với tình hình chi ngân sách như hiện nay, nhất là chi đầu tư công, tôi cho rằng cần phải đẩy mạnh công tác giải ngân hơn nữa để dòng vốn dịch chuyển vào nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xây dựng hạ tầng và lan tỏa đến tất cả các lĩnh vực kinh tế. Quá trình này sẽ tạo ra thặng dư, nguồn thu quay trở lại ngân sách, từ đó hình thành nên một chu trình bền vững của dòng vốn trong nền kinh tế.
Để tăng cường giải ngân vốn đầu tư công, điều cần thiết nhất chính là tháo gỡ các điểm nghẽn về mặt thể chế. Trước hết, cần tập trung sửa đổi các bộ luật như Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai, cùng hệ thống văn bản hướng dẫn để tạo hành lang pháp lý thông thoáng, tối giản quy trình triển khai.
Đồng thời, cần kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo không xảy ra tình trạng lãng phí vốn đầu tư công. Thực tế đã ghi nhận không ít trường hợp dự án chậm tiến độ gây thất thoát nguồn vốn, mà trong đó, nguyên nhân chính đến từ quá trình đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập. Ngoài ra còn đến từ các lý do như vướng mắc về thủ tục hành chính, quy hoạch, thủ tục giải ngân vốn, vật liệu xây dựng...
Song song với việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, cần có những giải pháp phù hợp để chống lãng phí, thất thoát nguồn vốn. (Ảnh minh họa)
Đối với công tác giải phóng mặt bằng, đây luôn là vấn đề nhức nhối trong nhiều năm qua, phần lớn là do thiếu dữ liệu về đất đai dẫn đến khó xác định giá đất trong thu hồi, đền bù... Vì thế, muốn thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, trước hết rất cần sự quyết liệt của các cơ quan quản lý trong việc làm sạch dữ liệu, số hóa dữ liệu đất đai. Đồng thời cũng phải giải quyết các vấn đề như chuẩn bị quỹ đất tái định cư, hỗ trợ tái thiết ổn định cuộc sống cho người dân, đàm phán, đối thoại, tuyên truyền để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Thêm nữa, để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công, cần tránh đầu tư dàn trải, mà nên tập trung vào các dự án trọng điểm có tính cấp thiết và hiệu quả kinh tế - xã hội cao như các công trình hạ tầng giao thông, hạ tầng giáo dục, y tế... Đồng thời, tiếp tục tăng cường năng lực quản lý và công tác giám sát tại các dự án bằng cách ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số. Bên cạnh đó, cũng cần huy động thêm các nguồn lực khác qua các mô hình hợp tác đầu tư như đối tác công tư PPP. Trong đó, thay vì chỉ định theo cơ chế “xin - cho” thì nên tổ chức đấu thầu rộng rãi, công khai, minh bạch để chọn ra các nhà thầu có đủ năng lực về chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ, thi công, quản lý, tài chính, đặc biệt phải đảm bảo sự uy tín. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, bảo đảm quyền lợi công - tư trong hợp đồng hợp tác.
- Đặt trong kịch bản cần tăng lãi suất huy động để kiềm chế lạm phát, theo ông, cần lưu ý những điều gì trong công tác điều hành?
TS. Nguyễn Hữu Đại: Nhìn lại bài học lịch sử năm 2011, trước bối cảnh lạm phát leo thang và tín dụng tăng trưởng nóng, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu thắt chặt hạn mức tín dụng đột ngột, gây ra nhiều hệ lụy như bùng phát tín dụng đen và làn sóng nợ xấu lan rộng... Rõ ràng, việc điều hành chính sách tiền tệ một cách “giật cục” sẽ là một hiểm họa, khiến nền kinh tế đối mặt với các cú sốc lớn. Vì thế, tôi cho rằng để các chính sách thực sự hữu hiệu khi đi vào đời sống thì cần phải có lộ trình phù hợp cùng các thông điệp minh bạch để điều chỉnh dần dần và giúp các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng, doanh nghiệp, người dân có sự chuẩn bị.
Điều hành chính sách tiền tệ cần có lộ trình rõ ràng để tránh giật cục gây phản tác dụng. (Ảnh minh họa)
Dựa theo kinh nghiệm quốc tế, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hay Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Ngân hàng Trung ương Indonesia (BI) đã từng sử dụng công cụ định hướng kỳ vọng (Forward Guidance - FG) để thông báo trước về chính sách, giúp thị trường chuẩn bị và giảm thiểu bất ổn. Nhờ đó, các cú sốc kinh tế do việc thay đổi chính sách mang tính "giật cục" được hạn chế tối đa, đồng thời tạo lộ trình rõ ràng cho thay đổi chính sách.
Tóm lại, chúng ta cần phải xây dựng hệ thống cảnh báo sớm các biến động kinh tế ở tầm bao quát, đồng thời sử dụng thêm các công cụ dự báo chỉ số vĩ mô như mức độ tăng trưởng của lạm phát để đưa ra những kế hoạch phù hợp, kịp thời.
- Các doanh nghiệp sẽ là chủ thể chịu tác động lớn nếu lãi suất tăng, đặc biệt là áp lực về chi phí vốn, bởi kênh huy động vốn chủ yếu vẫn là tín dụng ngân hàng. Vậy theo chuyên gia, các doanh nghiệp cần phải làm gì để thích ứng với kịch bản gia tăng lãi suất trong thời gian tới?
TS. Nguyễn Hữu Đại: Với kịch bản lãi suất tăng, doanh nghiệp sẽ là chủ thể bị tác động mạnh mẽ ở cả đầu vào (vốn) và đầu ra (thị trường).
Trong đó, đối với đầu vào, dòng vốn tín dụng hiện đang được xem là kênh huy động chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do đó, khi lãi suất tăng lên, việc tiếp cận nguồn vốn sẽ trở nên khó khăn hơn, làm tăng chi phí sử dụng vốn. Như vậy, để sẵn sàng thích ứng với kịch bản gia tăng lãi suất, rõ ràng là các doanh nghiệp không nên quá phụ thuộc vào kênh tín dụng để huy động vốn, thay vào đó, có thể chủ động khai thác thêm từ các nguồn khác như trái phiếu doanh nghiệp, hợp tác đầu tư, vốn chủ sở hữu.
Đối với đầu ra, doanh nghiệp cần hướng đến mục tiêu bình ổn giá thành sản phẩm, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường để tạo lợi thế cạnh tranh. Điều này có thể đạt được thông qua việc rà soát, cắt giảm chi phí không cần thiết, tối ưu hóa quy trình kinh doanh, đồng thời ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ vào hoạt động xây dựng, vận hành, quản lý bán hàng, chăm sóc khách hàng... Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng nên điều chỉnh cơ cấu hoạt động để phân bổ chi phí hợp lý, từ đó nâng cao sức khỏe tài chính nội tại.
Doanh nghiệp bất động sản nên chủ động đa dạng hóa nguồn vốn để sẵn sàng thích ứng với mọi biến động lãi suất. (Ảnh minh họa)
Với nhóm doanh nghiệp phát triển dự án bất động sản, tôi cho rằng họ nên tập trung vào các phân khúc đáp ứng nhu cầu thực, thay vì đầu tư quá dàn trải hoặc ôm quá nhiều dự án mang tính đầu cơ hoặc phân khúc cao cấp với chi phí sản xuất và vận hành tương đối cao, rủi ro sụt giảm thanh khoản khi lãi suất tăng cũng cao hơn. Cùng với đó, các doanh nghiệp nên nâng cao khả năng quản trị tài chính bằng cách kiểm soát chặt chẽ đòn bẩy tài chính, cân đối dòng tiền, hạn chế vay ngắn hạn để tài trợ cho các dự án trung và dài hạn.
- Không chỉ doanh nghiệp, mà các nhà đầu tư nhỏ lẻ hay người dân có nhu cầu ở thực cũng sẽ gặp khó khăn về dòng tiền với gánh nặng trả nợ nếu lãi suất tăng. Vậy theo ông, những đối tượng này nên làm gì để không bị mắc bẫy thả nổi và nguy cơ vỡ nợ khi lãi suất được nâng lên?
TS. Nguyễn Hữu Đại: Đối với những nhà đầu tư nhỏ lẻ và người có nhu cầu ở thực, để giảm thiểu gánh nặng trả nợ và hạn chế nguy cơ vỡ nợ, tôi nghĩ rằng họ nên có một khoản dự phòng được tích lũy trong vòng 6 - 12 tháng cho việc trả nợ trước khi quyết định mua nhà và bước vào thời kỳ trả nợ nhằm giảm bớt áp lực, đặc biệt là trong giai đoạn hết chính sách ưu đãi tài chính, lãi suất bắt đầu thả nổi. Khoản dự phòng này sẽ giúp tâm lý người mua trở nên thoải mái hơn và hoàn toàn có thể là “cứu cánh” vô cùng hiệu quả nếu gặp biến cố về việc làm hay sức khoẻ trong quá trình trả nợ.
Bên cạnh đó, trước khi mua nhà, người dân cũng cần xem xét thật kỹ khả năng trả nợ của mình, lập kế hoạch chi tiết để chuẩn bị trước tinh thần và tài chính. Tôi cho rằng, mức độ nợ vay so với tổng thu nhập nên dưới 40% sẽ là ngưỡng an toàn để đảm bảo khả năng chi trả. Đặc biệt, để tránh “sập bẫy thả nổi” đối với các khoản vay ngân hàng, người mua nên tìm hiểu thật kỹ thông tin gói vay như thời gian được hưởng lãi suất ưu đãi, thời gian điều chỉnh lãi suất thả nổi, mức phạt khi trả nợ trước hạn...
Ngoài ra, người đi vay cũng cần củng cố nền tảng kiến thức về tài chính cá nhân. Bởi hiện nay, có rất ít người Việt Nam, nhất là người trẻ, được trang bị đầy đủ về quản lý tài chính cá nhân. Theo khảo sát về mức độ hiểu biết toàn cầu của Standard & Poor’s Ratings Services (S&P Global Finlit Survey) cho thấy, ở Việt Nam chỉ 24% người trưởng thành có hiểu biết tài chính, đứng thứ 118/144 quốc gia được khảo sát. Hay theo khảo sát của Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên địa bàn Hà Nội cho thấy, trên 80% số người được khảo sát không biết tài chính cá nhân là gì và không quan tâm nhiều tới các kế hoạch tài chính cá nhân. Đây là một vấn đề cần được quan tâm, bởi giáo dục chính là nền tảng. Một người khi có kiến thức về quản lý tài chính sẽ biết cách cân nhắc chọn lựa các phương án đầu tư phù hợp với bản thân.
Trong khi đó, đối với các nhà đầu tư cá nhân, họ cần có tầm nhìn dài hạn và tập trung vào giá trị thực của tài sản, tránh lướt sóng, đầu cơ trong bối cảnh lãi suất tăng cao để không đứng trước nguy cơ vỡ kế hoạch tài chính.
- Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của chuyên gia!