
Tăng cường liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Liên kết doanh nghiệp là một yêu cầu không mới. Ông cha ta đã có câu: "Buôn có bạn, bán có phường". Gần đây chúng ta hay nói "Muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì phải đi cùng nhau". Trong một thế giới có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường như hiện nay, liên kết doanh nghiệp càng trở nên quan trọng hơn bởi nó giúp mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới, chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
*****
Chúng ta đã thấy các hình thức liên kết ngày một đa dạng hơn, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành (liên kết ngang); hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng (liên kết dọc); đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược nhằm chia sẻ thị trường, thông tin, nghiên cứu và phát triển. Trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng, dù ở vị trí thấp hay cao trong chuỗi.
Liên kết doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Tuy vậy, nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản: Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế, tham gia một số khâu, công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết của họ vẫn bị giới hạn chủ yếu trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu. Việt Nam còn thiếu các doanh nghiệp lớn có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước để phát triển các ngành kinh tế chiến lược quốc gia có khả năng cạnh tranh quốc tế.
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, chiến lược Trung ương)
Bên cạnh đó, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong những giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy..., các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, cùng nhau phát triển. Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI chỉ đạt khoảng 300 trên tổng số hơn 1.800 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó chủ yếu cung ứng hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng thấp hoặc đơn giản.
Số liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2018 - 2024 cho thấy, có trên 97% trả lời không có hoạt động liên quan đến xuất khẩu và 99% doanh nghiệp không có gia công hoặc sản xuất hàng hóa cho nước ngoài. Một nghiên cứu của VCCI (2022) cũng cho thấy, một nửa số doanh nghiệp khảo sát trả lời (53,3%) không đặt mục tiêu gì khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tức là thiếu định hướng rõ ràng.
Một là, năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối hạn chế, từ cạnh tranh về giá, chất lượng cho đến khả năng giao hàng đúng thời hạn, thực hiện đơn hàng lớn, tiếp cận kênh phân phối. Các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn dịch Covid-19, qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, khả năng thích ứng và liên kết với bên ngoài.
Xét riêng trong mối quan hệ với doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ để cùng tham gia chuỗi giá trị do một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI hầu như đều đã có sẵn mạng lưới các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, nên ít có nhu cầu tìm kiếm đối tác cung ứng trong nước. Thứ hai, các nhà cung cấp trong nước thiếu các kênh chính thức để thu thập thông tin về chiến lược mua hàng của doanh nghiệp FDI, nên không tạo được các mối quan hệ kinh doanh. Thứ ba, khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.
Khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. (Ảnh minh hoạ)
Hai là, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp còn bất cập. Chính sách phát triển doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để tham gia các liên kết doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và quốc tế. Hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thấp.
Trong khi đó, Việt Nam còn thiếu chính sách đặc thù về thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, nhất là chính sách ưu đãi về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Quy định hiện hành chưa đủ thuận lợi cho hoạt động tiếp cận các hình thức cấp vốn theo chuỗi giá trị.
a. Các chính sách chung về nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh để tham gia các hình thức liên kết doanh nghiệp
Một là, tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh. Cần quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông hiện đại và các công nghệ điển hình của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Trong giai đoạn 2 - 3 năm tới, cần cắt giảm tất cả các quy định, rào cản không cần thiết cho doanh nghiệp, đồng thời đơn giản hóa các quy định, nhằm cắt giảm tối thiểu 50% chi phí tuân thủ quy định về kinh doanh. Đồng thời, cần nâng cao mức độ bảo vệ quyền tài sản, hoàn thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, đặc biệt về đất đai, công nghệ và sở hữu trí tuệ.
Song song với đó là xây dựng, phát triển, hoàn thiện hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả để thực hiện quản lý nhà nước trên môi trường số và thực hiện các mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ cho các chủ thể kinh doanh. Khẩn trương hoàn thiện, kết nối, chia sẻ đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp để hình thành một hệ thống thông tin kết nối và thống nhất về đăng ký kinh doanh, cấp phép, chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh, thuế, hóa đơn, báo cáo tài chính...
Tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh là một trong những nhiệm vụ cần thiết để nâng cao năng lực - sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. (Ảnh minh hoạ)
Hai là, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Đẩy mạnh thực chất và hiệu quả các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trọng tâm vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cân nhắc tích cực việc điều chỉnh giảm thuế cho toàn bộ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay vốn tín dụng bằng tài sản hình thành trong tương lai. Thể chế hóa, tổ chức thực hiện toàn diện và đầy đủ các yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 59-NQ/TW, trong đó có yêu cầu thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập kinh tế quốc tế ở doanh nghiệp.
b. Một số chính sách đặc thù về liên kết doanh nghiệp
Một là, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng bằng chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết. Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận hạ tầng với chi phí hợp lý, tạo môi trường liên kết và hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động theo cụm - chuỗi. Sớm hình thành và phát triển các khu thương mại tự do làm cứ điểm chiến lược để các doanh nghiệp phát triển tập trung và phát triển theo chuỗi liên kết ngành, gắn với các mô hình kinh doanh mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn...).
Hai là, thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu. Trước mắt, cần thúc đẩy phát triển thực chất đối với công nghiệp bán dẫn, điện tử tiên tiến, phát triển phần mềm và trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp, công nghệ xanh và năng lượng tái tạo, các dịch vụ có tính kết nối (logistics, ICT) và hạ tầng thông minh. Ưu tiên mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ của các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn kinh tế tư nhân tham gia thực hiện các dự án đầu tư công.
Ba là, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tập trung vào thực hiện một số giải pháp đồng bộ như: Phát triển nền tảng số của Việt Nam để thúc đẩy kết nối doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác và tận dụng nguồn lực chung. Xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu, giúp doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin thị trường, xu hướng ngành và cơ hội hợp tác. Củng cố, đổi mới mô hình cụm liên kết ngành giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI theo chuỗi giá trị.
Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị yêu cầu tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.
Các nhiệm vụ, giải pháp được đề cập tới là cơ sở để hoàn thiện cơ chế, chính sách và thôi thúc hành động trong vấn đề liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Cụ thể:
- Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành, nhất là công nghiệp hỗ trợ, chế biến chế tạo, chế biến nông sản, thực phẩm, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Xác định việc doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ thử nghiệm sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật, kiến thức và đào tạo nguồn nhân lực, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nhỏ và vừa là một tiêu chí quan trọng để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Chi phí đào tạo và đào tạo lại nhân lực của doanh nghiệp lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi được tính vào chi phí được trừ để xác định thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Khuyến khích các tổ chức tài chính, tín dụng tài trợ vốn cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng.
- Khẩn trương triển khai các chính sách hỗ trợ về nghiên cứu phát triển, đào tạo, tư vấn, xúc tiến thương mại, chuyển giao công nghệ,... Hỗ trợ doanh nghiệp đạt các chứng chỉ, chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn ngành theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng. Nhà nước hỗ trợ các dịch vụ tư vấn, xúc tiến thương mại để kết nối các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm, khu thương mại tự do.
- Áp dụng tỷ lệ nội địa hoá phù hợp theo lộ trình trong các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, ưu tiên; đặt vấn đề các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án. Hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đã làm việc tại doanh nghiệp FDI nhằm tận dụng kinh nghiệm, kiến thức, mô hình quản trị, mối quan hệ với các doanh nghiệp FDI để tham gia vào chuỗi cung ứng.
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đã và đang có thể tiếp tục nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!