ĐBQH Phan Đức Hiếu: “Dành thời gian để doanh nghiệp nghĩ cơ hội kinh doanh thay vì để xin giấy phép”

ĐBQH Phan Đức Hiếu: “Dành thời gian để doanh nghiệp nghĩ cơ hội kinh doanh thay vì để xin giấy phép”

Thảo Liên
Thảo Liên lienlien.media@gmail.com
Thứ Sáu, 11/04/2025 - 06:00

Đất nước đang đứng trước thời điểm quan trọng để có thể tạo ra sự bứt phá trong tăng trưởng kinh tế, hoặc là rơi vào bẫy thu nhập trung bình với nhiều thách thức lớn hơn phải đối mặt. Khát vọng trở thành một quốc gia phát triển vẫn luôn cháy bỏng nhưng thời gian để đạt được các mục tiêu đã được đặt ra đến năm 2030, 2045 của nền kinh tế không còn nhiều. Sự kỳ vọng ngày một lớn hơn đang được đặt lên vai khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là lực lượng doanh nghiệp.

Động lực cải cách thể chế cùng quyết tâm hành động để tháo "vòng kim cô", giúp doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, bứt phá chưa bao giờ được thể hiện rõ ràng như lúc này. "Tinh thần dân tộc, khát vọng kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sẵn, chỉ cần có điều kiện để phát huy", ĐBQH Phan Đức Hiếu nói với Reatimes.

Từ kinh nghiệm hơn 20 năm gắn bó với việc xây dựng pháp luật về doanh nghiệp; nghiên cứu, tham mưu cải cách kinh tế, thể chế và phát triển doanh nghiệp, ĐBQH Phan Đức Hiếu cho biết, cải cách thể chế là quá trình thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng và vốn dĩ vẫn đang được thực hiện. Nhưng với đòi hỏi mới và sự chuyển biến liên tục, khó lường của bối cảnh hiện nay, câu chuyện cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh phải thực sự có những điểm đột phá.

Doanh nghiệp sợ nhất là những trói buộc liên quan đến quyền tự do kinh doanh, rào cản hành chính, rủi ro thể chế và bất cập trong tiếp cận nguồn lực. Không gỡ được những nút thắt này, doanh nghiệp khó có thể vươn vai phát triển như "Thánh Gióng", hiện thực hóa sứ mệnh thời đại; ngược lại khát vọng vươn mình sẽ bị nhấn chìm bởi những áp lực và khó khăn mà đôi khi không phải do thương trường. Doanh nghiệp sẽ không thể "cất cánh" nếu "đường băng" vẫn còn nhiều lỗ hổng hay những tảng đá nhấp nhô.

Đề án về phát triển kinh tế tư nhân đang được xây dựng, kỳ vọng sẽ có những giải pháp mang tính mới, mạnh mẽ, thực chất đi kèm với cơ chế thực thi hiệu quả, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể "vẫy vùng" trong không gian phát triển, đổi mới tư duy kiến tạo và hành động mạnh mẽ, góp phần đưa đất nước đi lên. Các giải pháp nếu thiếu đột phá hay việc thực thi chậm trễ, không hiệu quả sẽ khiến doanh nghiệp bỏ lỡ vô vàn cơ hội. Đó có thể là cơ hội để nhảy vọt, nhưng thậm chí là cơ hội để sống còn.

PV: Có thể thấy, một bước ngoặt cải cách đang mở ra và các doanh nghiệp tư nhân đang được trao sứ mệnh, đặt lòng tin rất lớn trong việc định hình tương lai của nền kinh tế, thưa ông?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Kinh tế tư nhân từ chỗ bị hạn chế, cần cải tạo trước Đổi mới (1986) đến được chấp nhận là một thành phần kinh tế phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, rồi trở thành một động lực quan trọng đối với nền kinh tế, đó là cả một chặng đường dài.

Đã có nhiều chuyển biến trong nhận thức và hành động đối với khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp, gắn liền với những cơ chế, chính sách không ngừng được hoàn thiện. Từ các nghị quyết của Đảng đến hệ thống quy định pháp luật, có thể thấy, nền tảng thể chế cho kinh tế tư nhân đã gần như phủ khắp, kèm theo đó là hàng loạt chính sách hỗ trợ, thúc đẩy.

Vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế đã từng bước được khẳng định và ghi nhận trong chủ trương, chính sách, pháp luật và thực tế cũng đã chứng minh vị thế quan trọng của khu vực này trong hầu khắp lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế.

Tuy nhiên, nhiều mục tiêu đặt ra về phát triển kinh tế tư nhân chưa đạt được so với kỳ vọng của nền kinh tế ở cả hiện tại và trong các định hướng, chiến lược phát triển giai đoạn tới, từ số lượng doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo, đến đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội…

Bối cảnh mới đặt ra rằng, nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân phải thể hiện việc nhận thức rất sâu sắc vai trò quan trọng của khu vực kinh tế này đối với các mục tiêu phát triển lớn lao của đất nước và có cách tiếp cận, liều lượng giải pháp mạnh. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, kinh tế tư nhân là đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng, phải coi phát triển kinh tế tư nhân là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay.

Các chỉ đạo của Trung ương hiện đang rất quyết liệt, mọi việc phải được tiến hành dứt khoát, nhanh chóng. Điều này cho thấy tính cấp thiết, không thể chần chừ, chậm trễ hơn được nữa trong việc đưa ra quyết sách mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, nếu không muốn bỏ lỡ các cơ hội phát triển.

Kỳ vọng đối với các doanh nghiệp tư nhân đang rất lớn. Đây là lực lượng chủ chốt không thể thay thế trong việc nâng cao nội lực của nền kinh tế.

PV: Đây không phải lần đầu tiên, chính sách, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân được bàn tới. Nhưng trong bối cảnh mới với kỳ vọng cao hơn được đặt ra, các giải pháp lần này phải như thế nào, có yêu cầu gì khác so với trước đây không? 

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Đúng vậy, giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân không phải là chưa có, có thể kể đến như: Nghị quyết 10, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các nghị quyết chuyên đề của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh... Và còn có thể tìm thấy giải pháp khác ở hầu khắp các văn bản pháp luật về doanh nghiệp và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Do đó, Nghị quyết về kinh tế tư nhân lần này ngoài kế thừa những quan điểm, giải pháp đã có trong các nghị quyết, đề án trước đây, kỳ vọng sẽ là giải pháp mới, mạnh mẽ hơn và cần cách làm mới trong tổ chức thực thi để Nghị quyết đi vào cuộc sống một cách nhanh chóng và hiệu quả. Có như vậy thì mới đáp ứng được mong muốn là kinh tế tư nhân nhanh chóng đóng góp được vai trò lớn hơn, trưởng thành nhanh hơn, phát triển mạnh hơn, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đi lên.

Tôi nhấn mạnh cải cách lần này cần phải tạo ra bước ngoặt. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, chỉ cải cách mạnh mẽ, mang tính đột phá mới tạo ra cú hích cho phát triển kinh tế tư nhân. Ví dụ như cải cách đột phá của Luật Doanh nghiệp năm 2000 đã thay đổi tư duy về quản lý doanh nghiệp, đề cao quyền tự do kinh doanh, chuyển từ cấp phép sang đăng ký thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ hàng trăm giấy phép kinh doanh…, tạo cú hích lớn để hình thành lực lượng doanh nghiệp như ngày nay. Nhiều người so sánh với khoán 10 trong nông nghiệp và ví Luật Doanh nghiệp năm 2000 như khoán 10 trong kinh doanh.

PV: Có lẽ cải cách mạnh mẽ thể chế vẫn là giải pháp quan trọng nhất. Giải pháp đột phá trong hình dung của ông cần được thiết kế trên những nguyên tắc và cách làm mới nào?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Phải bao gồm cả giải pháp trước mắt và lâu dài, ít nhất cần ba nhóm giải pháp: (1) Nâng cao chất lượng thể chế hiện hành; (2) Kiểm soát được chất lượng quy định mới sẽ ban hành; (3) Chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp.

Trước mắt, cấp thiết và trọng tâm trong cải cách thể chế hiện nay là nâng cao chất lượng quy định pháp luật hiện hành. Cần dựa trên tư duy và góc nhìn của doanh nghiệp để xác định các trọng tâm cải cách, có thể tư duy theo các khâu trong quá trình đầu tư kinh doanh: Từ gia nhập thị trường đến quy trình hoạt động sản xuất kinh doanh (thuế, bán sản phẩm hàng hóa, thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp...) và rút lui khỏi thị trường.

Điều quan trọng đầu tiên là việc gia nhập thị trường phải đảm bảo mục tiêu dễ dàng, nhanh chóng, thuận lợi, trên cơ sở mở rộng tối đa phạm vi quyền tự do kinh doanh. Trong quá trình hoạt động cần chính sách thuế phù hợp và ít rủi ro; sản phẩm, hàng hóa được đưa ra thị trường nhanh nhất; cạnh tranh, chống độc quyền phải được bảo đảm; nguồn lực vốn, đất đai cần được tiếp cận công bằng, thuận lợi; tranh chấp kinh tế, thương mại được giải quyết hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cả bên…

Các cải cách thể chế phải đáp ứng được yêu cầu đời sống thực tiễn kinh doanh. Ví dụ như cơ quan thuế và doanh nghiệp hiện mất nhiều thời gian để quyết toán thuế, xác định về vấn đề chi phí này được tính hay không được tính vào chi phí kinh doanh. Vậy sao không quán triệt nguyên tắc tất cả chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được tính đúng, tính đủ khi tính thuế? Khi đó sẽ giảm được rất nhiều rủi ro và chi phí tuân thủ pháp luật thuế cho cả nhà nước và doanh nghiệp. Hay vấn đề thanh tra, kiểm tra, cần xác định mục đích thanh tra là thúc đẩy doanh nghiệp tuân thủ pháp luật chứ không phải vạch lá tìm sâu.

Trong nghị quyết cần có cơ chế hiệu quả để kiểm soát được chất lượng quy định mới ban hành để tránh tình trạng: Giấy phép năm nay bãi bỏ, năm sau mọc lại, bãi bỏ ở ngành này lại quy định ở ngành khác…

Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp cần phải được rà soát, đánh giá tổng thể về tính hiệu quả, phù hợp để khắc phục bất cập hiện hành, như: Nặng về thủ tục, thiếu nguồn lực, phân tán hoặc trùng chéo...; ngoài mục đích hỗ trợ khó khăn thì cần có chính hỗ trợ mới để thúc đẩy, phát huy lực lượng doanh nghiệp tiềm năng để nhanh chóng trở thành doanh nghiệp lớn, có năng lực cạnh tranh ở tầm khu vực, thế giới.

PV: Doanh nghiệp được "tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm" nhưng lại phải vượt qua một rừng điều kiện kinh doanh, giấy phép con trong quy định của pháp luật. Dường như cơ quan quản lý vẫn bị ảnh hưởng câu chuyện doanh nghiệp chỉ được kinh doanh theo quy định của pháp luật như trước đây mà chưa thực sự hiểu rõ nội hàm của quyền tự do kinh doanh. Các điều kiện kinh doanh là công cụ quản lý nhưng nhiều trường hợp đang là rào cản. Cải cách sắp tới cần minh bạch câu chuyện này như thế nào, thưa ông?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Nguyên tắc "doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm" đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Tuy nhiên, chưa được triển khai triệt để trên thực tế, từ thiết kế chính sách đến thực thi pháp luật. Danh mục ngành nghề cấm, kinh doanh có điều kiện còn nhiều, thủ tục hành chính vẫn khó khăn. 

Hơn thế nữa, thực tiễn cho thấy những gì mà pháp luật không cấm nhưng "chưa có quy định" đang là "vùng xám" rất mơ hồ không biết có được làm hay không. Điều này có thể gây cản trở và rủi ro cho những sáng tạo và đổi mới, hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn lập pháp cho thấy nhiều trường hợp, thực tiễn đi trước, pháp luật đi sau. Nếu thấy hoạt động kinh doanh mới rủi ro thì đưa ra quy định để điều chỉnh cho hợp lý, chứ không phải cấm không cho làm những gì mà chưa có quy định. Bởi nếu như vậy thì làm sao có sáng kiến, sáng tạo trong kinh doanh?

Một môi trường đầu tư kinh doanh hiệu quả phải là giúp, khuyến khích doanh nghiệp phát huy nội lực, có sự tự do sáng tạo trong những lĩnh vực pháp luật chưa cấm và chưa quy định đến. Những ý tưởng kinh doanh mới sẽ tạo ra động lực tăng trưởng mới và phần còn lại của Nhà nước là chỉ cần thúc đẩy nó. Điều này cần phải được quán triệt, áp dụng nhất quán trong xây dựng và thực thi pháp luật.

Hoạt động cải cách môi trường đầu tư kinh doanh nhìn ở góc độ nào đó sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh và nuôi dưỡng ý tưởng tốt. Ngược lại, môi trường kinh doanh khó khăn với nhiều giấy phép, thủ tục hành chính đôi khi vô hình trung lại trở thành công cụ bảo hộ cho doanh nghiệp, hạn chế ý tưởng tốt. Khi các rào cản được bãi bỏ, dòng chảy thương mại trở nên thuận lợi thì sẽ có rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực mới được mở ra, thúc đẩy, nuôi dưỡng ý tưởng tốt phát triển.

Nêu một ví dụ thực tế đơn giản đã xảy ra mà tôi đã chứng kiến. Trước đây, ở vị trí A, nhà nước quy hoạch chỉ có một cây xăng, chủ cây xăng đã có giấy phép yên tâm bán xăng ở đó gần như suốt đời, thiếu động lực sáng tạo, nâng cao chất lượng dịch vụ. Khi quy hoạch xăng dầu được bãi bỏ và ngay lập tức khu vực đó xuất hiện thêm đơn vị kinh doanh khác, tôi thấy sự thay đổi rõ rệt: Các cửa hàng sạch sẽ hơn, thanh toán thuận tiện hơn, thậm chí thỉnh thoảng khách hàng còn được khuyến mại chai nước. Có thể thấy, thể chế càng thuận lợi, thì áp lực buộc phải đổi mới sáng tạo, tìm cách để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng gay gắt.

Cần tạo điều kiện, ưu tiên thời gian để doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội kinh doanh, đổi mới sáng tạo thay vì khiến họ mất nhiều thời gian xin giấy phép.

Thông điệp mà doanh nghiệp mong muốn nhất hiện nay là thể chế kinh tế phải hiệu quả hơn, tự do hơn, cạnh tranh hơn và giảm thiểu tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động đơn thuần. Nếu làm được điều này, tự khắc nền kinh tế sẽ tốt hơn, tăng trưởng không phải dè dặt mà sẽ có sự bứt phá. Đó là thể chế kiến tạo để nền kinh tế năng động, kéo dài tăng trưởng theo chu kỳ bền vững hơn, hiệu quả hơn.

PV: Quyền tự do kinh doanh theo đó cần được mở rộng tối đa?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Muốn có nhiều doanh nghiệp và có doanh nghiệp lớn nhanh, bền vững hơn thì phải mở rộng hết cỡ quyền tự do kinh doanh. Ngoài việc thu hẹp danh mục ngành nghề cấm, hạn chế đầu tư kinh doanh, cắt bỏ điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, thực thi nguyên tắc doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm và chưa quy định, thì cần tính đến cơ chế đột phá hơn nữa - đó là mô hình khu kinh tế, thương mại tự do (free zones hoặc free trade zones) đã thành công ở nhiều nước.

Mô hình khu kinh tế tự do có đặc điểm chung là tạo lập phạm vi quyền tự do kinh doanh rộng lớn và giảm tối thiểu việc cấp phép hay thủ tục hành chính hướng tới "free" - tức bằng 0 (không) hoặc thủ tục kinh doanh nếu có thì vô cùng nhanh chóng; cơ sở hạ tầng được kết nối thuận tiện. Có thể ví mô hình khu kinh tế tự do như một khu vực kinh doanh ở đó hoạt động sản xuất kinh doanh được làm hiệu quả nhất, chi phí tuân thủ và kinh doanh rất thấp. Ví dụ, chúng ta cần tư duy là có những ngành nghề kinh doanh bị cấm theo pháp luật nhưng hoàn toàn có thể được làm trong khu này, như sản xuất để hoàn toàn xuất khẩu, gia công cho đối tác nước ngoài. Các khu kinh tế tự do và đặc khu chuyên biệt dành riêng cho các ý tưởng kinh doanh mới, như AI, bán dẫn, xe tự lái, doanh nghiệp nhỏ và vừa… cần sớm được nghiên cứu và thành lập ở nước ta.

PV: Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa công tác cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh thực chất, hiệu quả, Thủ tướng đã yêu cầu bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết, giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính và ít nhất 30% chi phí kinh doanh (chi phí tuân thủ). Để làm được điều này, theo ông giải pháp trọng tâm là gì?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Vấn đề ở đây là cách làm. Tư duy là tập trung vào "bãi bỏ" và chủ động bãi bỏ thay vì "sửa đổi" chút ít; bãi bỏ không chỉ giới hạn ở những điều kiện, thủ tục đã được phản ánh là có bất cập mà chủ động xét thấy không cần thiết cũng cần phải bãi bỏ để rút ngắn thời gian, giảm chi phí thực hiện các thủ tục; bãi bỏ không phải là bỏ quản lý nhà nước mà là thay đổi tư duy quản lý.

Ví dụ như một số thủ tục đầu tư hiện có thực sự cần không? Thực tế cho thấy trong quá trình làm dự án, rất nhiều thứ phải thay đổi và làm hết các thủ tục điều chỉnh thì thời hạn thực hiện dự án theo chủ trương đầu tư đã hết. Khi đó doanh nghiệp lại phải thực hiện thủ tục gia hạn chủ trương đầu tư và chờ thêm một thời gian nữa. Cần xem xét là những thủ tục này bây giờ có còn thực sự cần thiết không, nếu không thì nên bãi bỏ.

Trong quy hoạch cũng vậy. Hiện nay có quá nhiều quy hoạch. Nhiều dự án bị đình trệ vì chưa có quy hoạch hoặc quy hoạch mâu thuẫn nhau. Cần rà soát toàn bộ hệ thống quy hoạch, xác định lại bản chất, vai trò của quy hoạch trong việc phê duyệt các dự án đầu tư để đơn giản hóa, bỏ bớt những quy hoạch không cần thiết, đảm bảo nguyên tắc dự án đầu tư không thể không triển khai chỉ vì lý do chưa có quy hoạch hoặc quy hoạch mâu thuẫn nhau. Ngoài ra, thay vì rà soát từng điều khoản cụ thể của một văn bản thì có thể xem xét phương án nếu văn bản luật, nghị định đó không còn cần thiết thì bãi bỏ luôn cả văn bản.

PV: Công tác cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trong thời gian qua nếu chưa hiệu quả, theo ông, nguyên nhân là do đâu?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Cải cách thể chế là quá trình thường xuyên, liên tục không có điểm cuối cùng. Thách thức lớn nhất là hầu như tất cả các cải cách trước đây đều xuất phát từ sự quyết liệt của Chính phủ, còn các bộ, ngành rất hiếm khi chủ động đề xuất cải cách, bãi bỏ điều kiện kinh doanh mà mình quản lý. Nếu Chính phủ không yêu cầu thì đâu là động lực cải cách thường xuyên, liên tục? Có những quy định hôm nay còn hợp lý nhưng ngày sau không còn phù hợp thì phải bãi bỏ hoặc sửa chữa kịp thời.

Mức độ cao nhất của cải cách thể chế là phải trở thành văn hóa làm việc, trở thành nhiệm vụ thường xuyên bộ, ngành, địa phương, phải xuất phát từ ý thức trách nhiệm trong việc kiến tạo một môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, an toàn cho doanh nghiệp, không phụ thuộc vào có chỉ đạo hay không có chỉ đạo. Trước khi đạt được điều này thì vẫn cần có cơ chế hiệu quả để duy trì được tính thường xuyên, liên tục, đặc biệt trong giai đoạn đầu của các chương trình cải cách thể chế. 

Việc cải cách môi trường đầu tư kinh doanh được nhìn nhận cũng giống như quản lý bể bơi. Muốn bể tốt thì phải lọc được nguồn nước và có người canh bể để kịp thời xử lý những yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng bể bơi. Thay, lọc nguồn nước là nâng cao chất lượng quy định hiện hành, còn "người canh bể" là cơ chế, cơ quan thực hiện và duy trì động lực cải cách. Tôi cho rằng cần xem xét thiết lập một cơ quan chính thức chuyên trách, chuyên môn, có thẩm quyền như Ủy ban cải cách thể chế thuộc Chính phủ - mô hình được thành lập ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật, Mỹ… để triển khai chương trình cải cách thể chế toàn diện, rộng khắp, mạnh mẽ và cơ chế này cần được thể chế hóa vào Nghị quyết lần này.

Song song với việc nâng cao chất lượng quy định hiện hành, cần chú trọng thêm việc kiểm soát chặt chẽ các quy định mới ban hành. Mọi quy định liên quan đến doanh nghiệp phải được đánh giá tác động doanh nghiệp, trên cơ sở tính toán kỹ lợi ích - chi phí, tính công bằng đối với các nhóm đối tượng với quy mô, tính chất kinh doanh khác nhau. Ngoài căn cứ pháp lý, chính trị, tính cần thiết ban hành hay sửa đổi một quy định phải dựa trên đánh giá chi phí - lợi ích. Trường hợp bắt buộc phải ban hành nhưng quy định đó gây bất lợi cho một nhóm doanh nghiệp thì cần xem xét cơ chế bù đắp cho nhóm doanh nghiệp chịu sự tác động bất lợi đó, tránh tạo ra gánh nặng tuân thủ mới, ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

PV: Câu chuyện thực thi các giải pháp chính sách từ trước đến nay vẫn là một nút thắt khó gỡ. Đâu đó vẫn có tình trạng "trên nóng dưới lạnh", thậm chí "chim sợ cành cong", sợ sai mà không dám quyết, không dám ký, không dám làm, đặc biệt là từ phía chính quyền địa phương. Theo ông, làm sao để có được những đột phá trong thực thi để có thể gia tăng hiệu quả, hiện thực hóa được các mục tiêu đặt ra?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Có thể có hiện tượng trên nóng, dưới lạnh, tâm lý lo lắng, chần chừ trong thực thi pháp luật. Nhưng tôi rất chia sẻ với cơ quan thực thi về việc này bởi vì nhiều trường hợp quy định thiếu rõ ràng, nhiều quy định khác nhau áp dụng cho một vấn đề nhưng áp dụng một quy định thì làm được còn áp dụng hết thì không biết làm thế nào! 

Thực tế, không bao giờ pháp luật có thể hoàn hảo đến mức luôn rõ ràng, không mâu thuẫn. Nếu dự án đầu tư phải dừng lại để chờ sửa đổi luật thì không hợp lý và có thể phải dừng rất lâu, gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư. 

Trong nghị quyết lần này nên có giải pháp trao quyền cho cơ quan thực thi, đặc biệt chính quyền địa phương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, giải quyết thủ tục trong trường hợp pháp luật không rõ ràng, có mâu thuẫn để giải quyết thủ tục cho dự án - phát huy sáng tạo, thực tiễn tốt của địa phương trong áp dụng pháp luật. Nói cách khác, địa phương (hội đồng nhân dân) cần được trao thẩm quyền ban hành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong trường hợp các quy định của pháp luật chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau hoặc mâu thuẫn trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích doanh nghiệp, người dân. Giải pháp này sẽ giúp giải quyết được vấn đề rất lớn là dự án đầu tư không còn bị trì hoãn bởi những hạn chế, thiếu sót của quy định pháp luật. 

Khi đặt lợi ích của doanh nghiệp, người dân và lợi ích chung của xã hội lên cao nhất trong áp dụng pháp luật thì rủi ro trong thực thi sẽ dần được xóa bỏ.

Không bao giờ pháp luật có thể hoàn hảo đến mức luôn rõ ràng, không mâu thuẫn. Nếu dự án đầu tư phải dừng lại để chờ sửa đổi luật thì không hợp lý và có thể phải dừng rất lâu, gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư.
ĐBQH Phan Đức Hiếu

PV: Ông có nói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cần tách thành một nhóm giải pháp riêng, tách bạch với các quy định về quyền kinh doanh. Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả của các chính sách hỗ trợ trong thời gian qua, nhất là đối với doanh nghiệp tư nhân?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Nếu thống kê cụ thể, biện pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp rất nhiều, đặc biệt có cả một luật về hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa kể đến các nghị quyết, nghị định… Nhưng có thể cảm nhận thấy các chính sách hỗ trợ dường chưa thực sự hiệu quả, còn tính - xin cho, thiếu nguồn lực thực hiện, khó tiếp cận... Ví dụ như gói hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị quyết về chính sách tài khóa - tiền tệ, hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được giải ngân rất hạn chế do một phần nguyên nhân là thủ tục phức tạp với hàng loạt yêu cầu như báo cáo tài chính, hợp đồng kinh tế, hóa đơn đặt hàng, phiếu nhập - xuất kho, hóa đơn chuyển tiền... Đó là chưa kể, quy định "có khả năng phục hồi" mới được vay khiến cả bên cho vay và người đi vay đều ngại, vì không biết phải hiểu thế nào cho đúng. 

Tôi còn nhớ, theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp biết tới chính sách này, trong đó khoảng 60% gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục tiếp cận khoản vay. 

Các chính sách hỗ trợ rất cần thiết đặc biệt trong giai đoạn hiện nay để giảm bớt khó khăn, khoan sức doanh nghiệp. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp tiềm năng để nhanh lớn, phát triển nhanh còn thiếu vắng. Việc rà soát sửa đổi Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các chính sách ưu đãi ngành, lĩnh vực có thể cần làm ngay lúc này.

ĐBQH Phan Đức Hiếu: “Dành thời gian để doanh nghiệp nghĩ cơ hội kinh doanh thay vì để xin giấy phép”- Ảnh 1.

Ảnh minh họa

PV: Theo ông, để hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp, việc thiết kế và thực thi chính sách hỗ trợ cần dựa trên những nguyên tắc nào?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Để khắc phục tình trạng nói trên, đảm bảo hiệu quả, trước mắt, cần rà soát lại tổng thể các chính sách hỗ trợ đã được ban hành, áp dụng đối với doanh nghiệp từ trước đến nay để khu trú, thiết kế lại các giải pháp trên cơ sở đảm bảo không trùng lặp, chồng lấn, có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng đúng nhu cầu doanh nghiệp, kèm theo nguồn lực. 

Cần giảm hành chính hóa chính sách hỗ trợ, giảm cơ chế xin - cho. Thay vào đó, nên sử dụng cơ chế tự động, không cần doanh nghiệp làm thủ tục đăng ký, kê khai - như cơ chế miễn, giảm nghĩa vụ tài chính đồng loạt (thuế, phí, tiền sử dụng đất...). Với cách này, chi phí tuân thủ, bao gồm cả tuân thủ quy định và chi phí tiếp cận các chính sách hỗ trợ, mới có thể giảm được.

Bên cạnh đó, nên tối đa hóa việc áp dụng cơ chế thị trường trong thiết kế và thực hiện các giải pháp hỗ trợ tài chính, theo kết quả đầu ra để tạo sự công bằng doanh nghiệp, nâng cao tính hiệu quả, hạn chế hỗ trợ trực tiếp từ cơ quan Nhà nước thông qua thủ tục hành chính. 

Việc thực hiện chính sách hỗ trợ bằng cơ chế thị trường vừa giúp nâng cao hiệu quả, tính công bằng vừa có thể tạo ra cơ hội kinh doanh mới với sự tham gia doanh nghiệp tư nhân vào hoạt động hỗ trợ. 

Vừa qua, tôi có dịp đến thăm 2 tập đoàn đầu tư vốn ở nước ngoài, hoạt động theo mô hình Holding Company, Financial Groups. Các tập đoàn này vừa có vốn nhà nước vừa có vốn tư nhân với hoạt động kinh doanh là đầu tư vốn vào các dự án đầu tư của doanh nghiệp khác nếu xét thấy dự án đó có tiềm năng phát triển. Đây đã trở thành kênh vốn quan trọng, bên cạnh kênh vốn truyền thống, cho nhiều doanh nghiệp, nhiều ý tưởng kinh doanh đổi mới sáng tạo - và nhờ đó đã thành công; tất nhiên có cả thất bại nhưng thành công là lớn hơn nhiều. Điều quan trọng là mô hình này hoạt động theo cơ chế thị trường và cũng là một ngành nghề kinh doanh.

Ngoài ra, rất cần thiết có chính sách thúc đẩy mạnh mẽ các dịch vụ trung gian hỗ trợ doanh nghiệp (Business Development Services) như: Tìm kiếm thị trường, đào tạo kỹ năng kinh doanh, kết nối doanh nghiệp… Đây chính là kênh trung gian để thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

PV: Với các doanh nghiệp, ông nghĩ sao về những cơ hội và thách thức mà bối cảnh đang mở ra cho họ? Là lực lượng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp cần chủ động có những giải pháp "tự nâng cấp mình" để có thể hiện thực hóa tốt nhất sứ mệnh được trao cho như thế nào, thưa ông?

ĐBQH Phan Đức Hiếu: Quyết tâm của Chính phủ trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế thời gian qua và tới đây là rõ ràng và rất đáng trân trọng. Cơ hội để tạo ra những cải cách cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn nữa đang rất rộng mở. 

Nhưng cùng với đó, bản thân doanh nghiệp cũng phải tự nâng cao năng lực quản trị của mình để phát triển một cách chuyên nghiệp, dài hạn và bền vững.

Như đã nói ở trên, khi cải cách thể chế được thực hiện mạnh mẽ đồng nghĩa áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp sẽ ngày càng cao, do rào cản pháp lý về gia nhập thị trường được gỡ bỏ, sẽ nhiều hơn doanh nghiệp mới tham gia và cạnh tranh với doanh nghiệp hiện tại.

Cho nên, bối cảnh hiện nay vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức để các doanh nghiệp có thể khẳng định và nâng cao năng lực thích ứng, năng lực quản trị của mình để bứt phá vươn lên. Các doanh nghiệp đã gia nhập thị trường trước có thể bị dừng hoạt động nếu chất lượng, dịch vụ và tiện ích không được đảm bảo hoặc không duy trì được và bị thay thế bởi ý tưởng mới, mô hình kinh doanh mới. Doanh nghiệp cần nhận thức được nguy cơ sàng lọc, phải chủ động đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng quản trị để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Bối cảnh trong nước và quốc tế giờ đã thay đổi. Nhiều doanh nghiệp phản ánh rằng, trước đây, khi đã thâm nhập được thị trường, dù gặp khó khăn trong một số giai đoạn, song các đơn hàng sẽ tự động quay trở lại trong trường hợp tiêu dùng phục hồi. Tuy nhiên hiện nay đã không còn dễ dàng như thế. Các doanh nghiệp đang phải cạnh tranh để chiếm lĩnh, duy trì thị trường cả trong nước và quốc tế, trong bối cảnh sức mua còn yếu, phục hồi chậm. Sự phát triển của khoa học công nghệ và hành vi của người tiêu dùng cũng đang rất khó dự đoán, các sản phẩm giảm phát thải được quan tâm hơn.

Bên cạnh việc phải chủ động, quyết liệt nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý là phải có chiến lược kinh doanh dài hạn, xây dựng thương hiệu, nâng cao quản trị doanh nghiệp, giữ chữ tín trong kinh doanh.

Câu chuyện cạnh tranh quốc tế đã rất khác so với tư duy kinh doanh hiện nay của đa phần doanh nghiệp. Nhiều trường hợp kinh doanh nhưng không có sự chuẩn bị một cách bài bản và những kịch bản ứng phó với rủi ro có thể xảy ra thì dễ thất bại. 

Thậm chí, tôi rất xót xa khi chứng kiến nhiều doanh nghiệp thực hiện hợp đồng, thỏa thuận kinh doanh theo thói quen của mình, theo suy nghĩ của mình mà bỏ qua nội dung đã thỏa thuận dẫn đến thiệt hại không đáng có. Nhiều doanh nghiệp khi phát triển đến một quy mô nhất định nhưng không có khung khổ quản trị hiệu quả dẫn đến tranh chấp nội bộ cổ đông, người quản lý, khó chuyển giao thế hệ… dẫn đến suy yếu doanh nghiệp - đây là điều đáng tiếc. 

Giờ đây, doanh nghiệp cần bài bản hơn, dự liệu được các rủi ro bao gồm cả rủi ro pháp lý trong thủ tục, tranh chấp hợp đồng…. Chi phí hỗ trợ pháp lý cần coi là một phần chi phí kinh doanh.

Đất nước có thể vươn mình trong 2 thập kỷ tới để hiện thực hóa khát vọng 2045 hay không, phụ thuộc rất lớn vào tốc độ và hiệu quả của việc thực thi các cải cách đột phá sắp tới. Tôi tin rằng, khi có môi trường kinh doanh trong sạch, lành mạnh, doanh nghiệp tư nhân sẽ vững vàng phát triển trong dài hạn và đạt được những kỳ vọng, trông đợi của nền kinh tế.

- Trân trọng cảm ơn ông!

Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.

Mùa xuân năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.

Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được xem xét, định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Một nghị quyết mới về kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.

Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.

Đầu tháng 3, chủ trì buổi làm việc với Ban Chính sách và Chiến lược Trung ương về một số giải pháp chiến lược nhằm tạo đột phá phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy và tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân, xóa bỏ những định kiến, tư duy không đúng để tạo sự thay đổi trong "ứng xử" và hành động, chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế quan trọng này, đồng thời phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển kinh tế tư nhân.

Trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư khẳng định: Chúng ta cần phải quán triệt lại định hướng quan điểm và nhận thức trong cả hệ thống chính trị về vai trò của kinh tế tư nhân như là động lực tăng trưởng quan trọng hàng đầu của đất nước. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong hoạch định chính sách, khắc phục những hạn chế và phát huy tính ưu việt của cơ chế thị trường để hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân nâng cao năng suất lao động và đổi mới sáng tạo.

Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đang nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.

Trân trọng giới thiệu tới độc giả!

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Thương hiệu dẫn đầu

Lên đầu trang
Top