Phát huy nội lực, tăng sức cạnh tranh, phục hồi bền vững nền kinh tế
Quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng hơn 430 tỷ USD. Về giá trị thương hiệu, Việt Nam xếp thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả, triển vọng và khả năng phục hồi của nền kinh tế nước ta. Năm 2024, theo dự báo của IMF, quy mô nền kinh tế có thể tăng lên khoảng 465,8 tỷ USD, xếp thức 5 trong khu vực, sau các quốc gia như Indonesia (1,47 nghìn tỷ USD), Thái Lan (548,89 tỷ USD), Singapore (525,22 tỷ USD) và Philippines (471,5 tỷ USD).
Trong bối cảnh khó khăn chung, 5 tháng đầu năm 2024, kinh tế Việt Nam tiếp tục có được một số kết quả đáng ghi nhận. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 4,03% (trong ngưỡng Quốc hội giao 4 - 4,5%). Nhiều ngành, lĩnh vực có được dấu hiệu phục hồi so với cùng kỳ năm trước, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,8% (năm 2023 giảm 2%); khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 1,4 triệu lượt, tăng 64,9% so với cùng kỳ năm 2023; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 305,5 tỷ USD tăng 16,6%, xuất siêu trên 8,01 tỷ USD; tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký mới vào Việt Nam đạt 7,9 tỷ USD, tăng 27,5%, cao nhất trong 3 năm qua; vốn FDI thực hiện đạt 8,25 tỷ USD, tăng 7,8%, cao nhất trong 5 năm qua;… Đây là những thành quả có được từ nỗ lực chung của toàn hệ thống, đặc biệt là tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực vươn lên, bền bỉ vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
Ngay từ đầu năm, có thể dễ dàng nhận thấy 4 điểm nhấn giải pháp thể hiện quyết tâm hành động của Quốc hội, Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2024, tạo đà bứt phá cho nền kinh tế trong giai đoạn mới, theo Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 của Chính phủ.
Thứ nhất, về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ đều nhấn mạnh quan điểm ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, Chính phủ nhấn mạnh 16 chữ vàng với 4 thông điệp trong hành động: Kỷ cương - Trách nhiệm, Chủ động - Kịp thời, Tăng tốc - Sáng tạo và Hiệu quả - Bền vững. Các giải pháp chú trọng đến đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh, bền vững, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng và đặc biệt là đảm bảo cung ứng điện cho sản xuất và tiêu dùng.
Thứ hai, đó là các giải pháp nhằm hiện thực hóa những cơ hội từ kết quả về ngoại giao kinh tế của năm 2023 với điểm nhấn là thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, cho ngành nghề mới. Chính phủ đã đặt mục tiêu và quyết tâm đào tạo từ 50 - 100 nghìn lao động cho công nghiệp bán dẫn, để tận dụng cơ hội mới, động lực tăng trưởng mới từ kết quả ngoại giao kinh tế.
Thứ ba, chú trọng thu hút FDI thế hệ mới trong sân chơi toàn cầu. Quốc hội đã thông qua nghị quyết về thu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế tối thiểu toàn cầu, đồng thời giao Chính phủ sớm thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thuế thu nhập bổ sung này. Quyết định này thể hiện rõ cách thức thu hút đầu tư của nước ta là tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn chứ không phải chỉ dựa trên ưu đãi, ưu tiên.
Thứ tư, thúc đẩy chính sách hướng tới bảo vệ và phát huy nội lực chính là cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trong nước. Các Nghị quyết của Quốc hội nhấn mạnh rất nhiều đến yêu cầu thể chế hóa, hiện thực hóa Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị về doanh nghiệp, doanh nhân trong bối cảnh mới. Theo đó, yêu cầu thực thi Nghị quyết một cách thực chất, đầy đủ, quyết liệt và nhanh chóng nhằm tạo lập một môi trường đầu tư yên tâm, an toàn, bền vững cho cộng đồng doanh nghiệp - lực lượng nòng cốt trong việc hiện thực hóa các mục tiêu kinh tế đã đặt ra, để phát huy tối đa nguồn nội lực này.
Quốc hội, Chính phủ đã nỗ lực rất cao với nhiều cách làm mới trong cải cách thể chế, tháo gỡ vướng mắc pháp lý, nâng cao chất lượng của các văn bản pháp luật. Đặc biệt, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, giải pháp rất quyết liệt, ví dụ như yêu cầu kiểm soát quy định từ sớm, ngay từ khâu ban hành; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để giảm thiểu tình trạng "một cửa nhiều ngách". Trong năm 2023 và đầu năm 2024, nhiều luật mới, quan trọng được sửa đổi và ban hành. Hơn thế nữa, 4 luật quan trọng là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai số 31/2024/QH15, Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15, Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 có hiệu lực từ 1/1/2025, đã được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 để xem xét thi hành sớm trước 5 tháng - thể hiện quyết tâm sớm đưa luật, chính sách vào thực tế. Các luật đã được sửa đổi, bổ sung dự kiến nếu sớm đi vào cuộc sống sẽ có tác động kịp thời giải quyết, xử lý dứt điểm các vướng mắc, khơi thông nguồn lực và góp phần phục hồi và phát triển kinh tế. Riêng Luật Đất đai năm 2024, việc thông qua luật này là một sự kiện pháp lý đặc biệt quan trọng của đất nước ta, thể hiện ở cả cách làm và nội dung; dự kiến với nội dung mới của luật sẽ phát huy tốt hơn nguồn lực đất đai trong công cuộc phát triển đất nước. Luật Đất đai năm 2024 được dự báo bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất; thúc đẩy tiếp cận đất đai minh bạch và công bằng hơn; nâng cao hiệu quả sử dụng đất; đổi mới mạnh mẽ về tài chính đất đai; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai.
Trước những "cơn gió ngược" tác động đến nền kinh tế, các doanh nghiệp đang và sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thậm chí những khó khăn cộng đồng doanh nghiệp phải trải qua trong thời điểm hiện nay còn khốc liệt hơn rất nhiều so với giai đoạn suy thoái kinh tế 2011 - 2013. Ngoài những khó khăn vốn tồn tại từ trước, các khó khăn "mới" về thị trường, về vốn, áp lực cạnh tranh ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nước ta hiện không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh rất cao với doanh nghiệp các nước khác cả trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài.
Bối cảnh hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức cùng những nguy cơ tiềm ẩn có thể tác động đến mục tiêu tăng trưởng, trong khi đó, động lực chính để phát triển kinh tế là doanh nghiệp. Lúc này, bên cạnh sự chủ động, linh hoạt và thích ứng của chính các doanh nghiệp, thì những nỗ lực về cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được kỳ vọng là giải pháp phi tài chính hiệu quả trong hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phục hồi bền vững và gia tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Thể chế phải thực sự trở thành động lực quan trọng, có giá trị dẫn đường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước. Không để thể chế cản trở sự phát triển là một nguyên tắc xuyên suốt, ưu tiên hàng đầu. Cải cách thể chế có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ ở việc cắt giảm thủ tục hành chính, chi phí hành chính, mà còn hướng đến cắt giảm chi phí đầu tư kinh doanh phát sinh từ các quy định pháp luật cho doanh nghiệp. Bởi mặt trái hay tác động không mong muốn của luật pháp là không chỉ tạo ra thủ tục hành chính, mà còn tạo ra gánh nặng về tài chính và chi phí tuân thủ rất lớn. Trong bối cảnh khó khăn, các chi phí này càng tăng thêm gánh nặng đối với doanh nghiệp. Có 5 loại chi phí mà một quy định pháp luật có nguy cơ tạo ra là: Chi phí thủ tục hành chính; phí, lệ phí (chi phí về hành chính); chi phí về đầu tư tính bằng tiền; chi phí cơ hội - chi phí có thể làm mất đi cơ hội nếu chậm trễ trong việc giải quyết các thủ tục, đây cũng có thể là nguồn cơn tạo ra chi phí thứ 5 là chi phí không chính thức.
Ngoài ra, trước những biến đổi của nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp Việt phải đối mặt với một loạt các chính sách thương mại toàn cầu hay từ các quốc gia cụ thể, cũng làm gia tăng chi phí, rào cản kinh doanh cho doanh nghiệp, ví dụ như thuế carbon 10 - 15% với một số sản phẩm (cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - CBAM của Liên minh Châu Âu). Đây là thách thức mới mà chúng ta không kiểm soát được mà phải thay đổi mình để tham gia sân chơi toàn cầu.
Mặt khác, các nước trong khu vực hiện nay đang cạnh tranh gay gắt đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút FDI. Theo đó, quốc gia nào có môi trường đầu tư tốt, chi phí tuân thủ thấp thì sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn so với những nước có môi trường đầu tư kinh doanh không tốt. Do đó, cải cách thể chế phải đặt trong cả bối cảnh quốc tế. Chúng ta không chỉ cần so sánh kết quả cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của năm nay so với năm trước để tự thỏa mãn, mà còn cần đặt ra câu hỏi rằng, so với các nước trong khu vực, chúng ta đang ở đâu.
Trong giai đoạn khó khăn, có thể nghiên cứu, xem xét thực hiện phương thức cải cách mới - như khung thể chế nới lỏng có thời hạn, có địa chỉ để giúp doanh nghiệp cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, ứng phó với các biến động. Ví dụ, với lĩnh vực bất động sản hay tài chính, nhu cầu cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, bán tài sản là hiện hữu. Song nếu chiếu theo những điều kiện thực tế, tình hình thị trường trong bối cảnh không thuận lợi, thì có những quy định phù hợp trong bối cảnh bình thường lại trở thành cản trở doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn. Như vậy, nếu doanh nghiệp vẫn phải đáp ứng và tuân thủ các điều kiện, quy định như bình thường thì rất khó để tái cơ cấu và phục hồi.
Bên cạnh công tác cải cách thể chế thường xuyên là việc rà soát lại các quy định hiện hành để giảm thiểu rào cản thủ tục hành chính, cần chú trọng đến kiểm soát việc ban hành quy định mới hoặc sửa đổi quy định hiện hành mà làm gia tăng chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp. Theo đó, trong giai đoạn hiện nay, nếu chưa thực sự cấp bách thì không nên ban hành; trong trường hợp phải ban hành vì có mục tiêu chính sách hay buộc phải thực hiện theo điều ước quốc tế thì cần có lộ trình áp dụng đủ dài, phù hợp, giúp doanh nghiệp có thời gian cần thiết để ổn định "sức khỏe" và chuẩn bị phương án tuân thủ; hoặc hỗ trợ trực tiếp về tài chính cho doanh nghiệp để tuân thủ quy định đó. Nếu làm được điều này, sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phục hồi kinh tế.
Về lâu dài, để cải cách thể chế được thực hiện thường xuyên và bền vững thì cần một cơ chế để thúc đẩy. Dựa trên kinh nghiệm quốc tế có thể thấy, cải cách nếu chỉ xuất phát đơn lẻ, bộc phát theo từng thời điểm từ chính những cơ quan ban hành ra thể chế thì việc cải cách sẽ không hiệu quả. Nhiều nước đã thiết lập cơ chế thường xuyên để thúc đẩy và duy trì động lực cải cách thể chế. Trên thế giới, các nước thường có một cơ quan độc lập không phải bộ ngành, có chức năng giám sát, thúc đẩy cải cách thể chế. Đơn cử, tại Canada được gọi là Ủy ban đặc biệt thuộc Hội đồng Bộ trưởng; tại Hàn Quốc là Ủy ban Tổng thống về cải cách thể chế; ở Anh gọi là Hội đồng chịu trách nhiệm về cải cách thể chế; ở Mỹ là Văn phòng thông tin về cải cách thể chế… Tên gọi khác nhau, nhưng bản chất đều là cơ quan được lập ra thuộc Chính phủ hoặc do chính Thủ tướng Chính phủ đứng đầu để thực hiện thúc đẩy, giám sát cải cách thể chế. Nhiều quốc gia trao thẩm quyền rất lớn cho các cơ quan này. Đây là một cơ chế bền vững trong cải cách thể chế và hướng tới cải cách có hệ thống. Tôi cho rằng, cơ quan này là cần thiết trong bối cảnh hiện nay và trong tương lai, để giúp cho việc cải cách thể chế được diễn ra thường xuyên, hiệu quả và bền vững.
Hơn nữa, cải cách thể chế phải hướng tới sự minh bạch, công bằng, cạnh tranh lành mạnh để doanh nghiệp phát triển thực sự và hướng đến chất lượng, chứ không nên chỉ dừng lại ở chỉ tiêu cơ học, như giảm số ngày, giảm số hồ sơ hay giải quyết thủ tục hành chính. Vấn đề quan trọng là cần bám sát hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và giải quyết vướng mắc. Trong xử lý các bất cập, cần tránh áp dụng những giải pháp mang tính "hãm phanh" đột ngột, nằm ngoài khả năng dự báo. Đối với doanh nghiệp thì việc có thể dự báo để xây dựng kịch bản kinh doanh là rất quan trọng và họ rất sợ những chính sách "overnight" có thể thay đổi chỉ sau 1 đêm, không thể đoán trước.
Bối cảnh hiện nay đang thay đổi rất nhanh với nhiều yếu tố tác động khó dự đoán. Để đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng thì việc thực thi các giải pháp chính sách đã đề ra phải quyết liệt và kịp thời hơn. Sự biến động liên tục của bối cảnh không cho phép chúng ta chậm trễ; nếu không đẩy nhanh tốc độ hành động trong thực tiễn thì sẽ dễ xảy ra tình huống: rõ ràng, giải pháp đề ra có thể phù hợp nhưng do thực thi chậm, khi hoàn cảnh đã thay đổi, sẽ không còn phù hợp nữa. Chỉ khi thực thi sớm thì mới có cơ hội điều chỉnh về mức độ và tính đến những giải pháp bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Yếu tố kịp thời rất quan trọng, nếu chậm trễ thì vô hình trung không giải quyết được vấn đề, dẫn đến doanh nghiệp khó khăn sẽ lại càng khó khăn, thậm chí mất đi các cơ hội hiếm có mà bối cảnh đã mở ra.
Quyết tâm của Chính phủ trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế thời gian qua là rõ ràng và rất đáng ghi nhận. Cơ hội để tạo ra những cải cách cơ chế, chính sách mạnh mẽ hơn nữa đang rất rộng mở, khi Quốc hội sẵn sàng vào cuộc sớm, sát cánh cùng với Chính phủ trong hành động. Tuy nhiên, khi bối cảnh thay đổi với yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao hơn thì tất yếu, quyết tâm càng phải cao hơn và thậm chí cao hơn nữa và luôn phải được duy trì. Nỗ lực và sự chủ động trong bối cảnh hiện tại là vô cùng quan trọng.
Thị trường thế giới khó khăn, thúc đẩy cạnh tranh giữa doanh nghiệp của các quốc gia càng trở nên gay gắt. Ngay cả với thị trường trong nước, doanh nghiệp Việt cũng phải cạnh tranh toàn cầu. Cải cách sẽ khó khăn hơn, đòi hỏi sâu hơn, toàn diện hơn để đáp ứng đòi hỏi cao hơn của nhà đầu tư, doanh nghiệp và cuộc đua với các quốc gia khác để thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao. Nói một cách ngắn gọn, các nước đang đứng trên chúng ta trong các bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh chỉ cần nỗ lực một, thì chúng ta phải nỗ lực gấp đôi, gấp ba, thậm chí hơn nữa.
Yêu cầu cải cách thể chế hiện nay không chỉ là tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh mà còn liên quan đến năng lực cạnh tranh quốc gia, khả năng thích ứng và ứng phó hiệu quả với những biến động khó lường. Thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng nghĩa với việc nội lực của nền kinh tế cần được nâng cao.
Để phát huy nội lực, cần tạo ra sự thay đổi nền tảng trong việc tái cơ cấu nền kinh tế, có cơ chế phân bổ nguồn lực hiệu quả, đúng đối tượng. Nguyên tắc phân bổ là khu vực, chủ thể nào có năng lực sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất thì phải có cơ hội để tiếp cận nhanh nhất, kịp thời và đầy đủ nhất. Tức là, nguồn lực phải được phân bổ theo thị trường chứ không phải qua cơ chế hành chính xin - cho.
Bên cạnh phân bổ nguồn lực, phát huy nguồn lực mới thì khơi thông nguồn lực hiện có cũng là vấn đề quan trọng. Những nguồn lực hiện có như dự án đã triển khai, đang dang dở vì vướng mắc thể chế, pháp lý, vướng mắc phòng cháy, chữa cháy, hay hoàn thuế VAT... nếu được tháo gỡ hiệu quả, kịp thời sẽ đóng góp thiết thực nhất cho phát triển kinh tế. Điểm chung của nội dung này là đâu đó đã nhận diện được vướng mắc, có thể giải quyết dứt điểm và chỉ cần hành động cụ thể. Ví dụ, Chính phủ đã có Nghị quyết 33/2023/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững. Các dự án quy mô lớn thuộc diện vướng mắc đã được nhận diện, cần tháo gỡ ngay, kịp thời và dứt điểm. Khơi thông được đầu ra của dự án thì sẽ giải quyết được nhiều điểm nghẽn vốn tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế.
Một nguồn lực khác cần sớm được khơi thông để gia tăng nội lực cho nền kinh tế, đó là nguồn lực trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Một phần do còn có hạn chế về cơ chế, chính sách nên doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự phát huy đầy đủ vai trò của mình. Việc trao quyền tự chủ, tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản trị, điều hành doanh nghiệp; xác định rõ Nhà nước là nhà đầu tư vốn, không can thiệp hành chính trực tiếp vào hoạt động và quản trị sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp… dù được thực hiện nhiều năm nhưng chưa đạt kết quả mong đợi. Bài toán nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vẫn sẽ lại đợi cơ chế, chính sách. Vấn đề này cần được ưu tiên ngay trong năm 2024 để khơi thông được một nguồn lực rất lớn cho phát triển kinh tế.
Ngoài ra, nguồn lực con người cũng cần được ưu tiên. Thực tiễn cho thấy nguồn lực con người trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, là nền tảng cho chuyển đổi và quản trị sự thay đổi - đặc biệt là nguồn nhân lực trong khu vực công. Trong đầu tư, kinh doanh, lợi thế về lao động giản đơn, giá rẻ để thu hút đầu tư trước đây dần trở thành điểm nghẽn cho tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là tình trạng di cư, vừa thừa, vừa thiếu lao động. Phát triển nguồn nhân lực phải là một trọng tâm, một trụ cột riêng, bao hàm tổng thể các giải pháp chung, để nâng cao chất lượng lao động và hệ sinh thái cho người lao động.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác lập mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gắn liền với khát vọng về một đất nước Việt Nam cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc. Từ sau Đại hội đến nay, cả nước đang từng bước hiện thực hóa khát vọng đó. Năm 2024 có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh thực hiện và phấn đấu hoàn thành mục tiêu của các kế hoạch 5 năm 2021 - 2025, góp phần triển khai các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới dự báo vẫn còn khó khăn. Các yếu tố bất định từ bên ngoài đang tạo nên nhiều thách thức lớn hơn tới điều hành kinh tế, cũng như thực hiện các mục tiêu tăng trưởng trong những năm tiếp theo.
Trước đây, doanh nghiệp khi đã thâm nhập được thị trường, khi tiêu dùng phục hồi, các đơn hàng sẽ quay trở lại. Nhưng hiện nay, vấn đề này đã không còn dễ dàng như thế. Các doanh nghiệp đang phải cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường và duy trì thị trường. Sự phát triển của khoa học công nghệ và hành vi của người tiêu dùng cũng đang rất khó dự đoán, các sản phẩm giảm phát thải được quan tâm hơn. Do vậy, các doanh nghiệp cần nhận biết được những yếu tố "vạn biến" để có ứng biến linh hoạt. Một luật chơi mới đã được thiết lập và ít nhất sẽ còn tồn tại trong vài năm tới. Doanh nghiệp cũng cần thay đổi về cách tiếp cận trong "vạn biến" với tâm thế chủ động và chấp nhận cuộc chơi, từ việc tuân thủ thế chế hiện tại cho đến việc chuẩn bị và sẵn sàng cho sự thay đổi thể chế, luật chơi toàn cầu trong tương lai.
Bối cảnh hiện nay vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức để các doanh nghiệp có thể khẳng định và nâng cao năng lực thích ứng, năng lực quản trị của mình trước nguy cơ bị sàng lọc hoặc bứt phá vươn lên. Các đơn vị đã gia nhập thị trường trước có thể bị phá sản nếu chất lượng, dịch vụ và tiện ích không được đảm bảo hoặc không duy trì được và bị thay thế bởi ý tưởng mới, mô hình kinh doanh mới. Doanh nghiệp cần nhận thức được nguy cơ sàng lọc, phải chủ động đổi mới, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Bối cảnh mới cho thấy cải cách thể chế ngày càng trở nên quan trọng trong khơi thông nguồn lực, phát huy sức mạnh nội sinh, gia tăng năng lực linh hoạt và thích ứng. Đây cũng là nhiệm vụ vừa khó, vừa thách thức nhưng gắn liền với lợi ích quốc gia. Để đưa đất nước đi lên, đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và quyết liệt hơn nữa của cả hệ thống trong việc thực thi thực chất, kịp thời các giải pháp cải cách thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, để cạnh tranh ở tầm khu vực và toàn cầu./.