Thị trường trái phiếu còn cách rất xa mục tiêu phát triển đề ra đến năm 2030
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường vốn và các dịch vụ tài chính ngày càng hoàn thiện về cấu trúc và quy mô, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã trở thành kênh huy động vốn hiệu quả trong trung và dài hạn đối với doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp bảo đảm hài hòa nguồn vốn, giảm sự phụ thuộc vốn quá lớn vào kênh tín dụng ngân hàng. Trong giai đoạn 2018 - 2021, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng vượt bậc, nhất là về khối lượng phát hành với tốc độ trung bình hằng năm khoảng 45%.
Tuy nhiên, qua nhiều năm hoạt động, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định liên quan tới sự minh bạch thông tin, việc tuân thủ các quy định pháp luật của doanh nghiệp phát hành trái phiếu; việc thực hiện các cam kết với nhà đầu tư cũng như khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế tiếp tục khó khăn… Đáng chú ý, thời gian qua thị trường này còn chịu ảnh hưởng bởi niềm tin của nhà đầu tư đi xuống, chủ yếu do sai phạm của một số doanh nghiệp vừa bị xử lý.
Tại hội thảo "Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tới 2030: Góc nhìn từ xếp hạng tín nhiệm", GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam đánh giá, trái phiếu là kênh dẫn vốn ổn định và tiềm năng, tuy nhiên sau giai đoạn tăng trưởng bùng nổ năm 2018 - 2021, khủng hoảng thị trường trái phiếu xảy ra vào năm 2022 khiến tỷ lệ dư nợ rơi từ 16% GDP xuống còn khoảng 11% GDP và hiện tại chưa có chiều hướng đi lên.
Đáng chú ý, hiện thị trường trái phiếu so với GDP khoảng 11% nhưng so tổng vốn huy động thì vốn trái phiếu chỉ chiếm khoảng 8% so với tín dụng. Cùng với đó, các doanh nghiệp hiện nay chưa tiếp cận đúng nghĩa thị trường vốn mà vẫn thông qua ngân hàng huy động vốn ngắn hạn.
Do đó, khi đánh giá về mục tiêu nâng quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Chính phủ, ông Cường nhìn nhận, mục tiêu đặt ra đến năm 2025, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu khoảng 20% GDP là khó. Đến năm 2030, mục tiêu dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt được 25% cũng rất khó khăn.
Đồng quan điểm, ông Trần Lê Minh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Xếp hạng tín nhiệm đầu tư Việt Nam VIS Rating nói, nhìn vào mục tiêu năm 2030 phải đạt 25% GDP là điều rất khó. Nếu Việt Nam chỉ tăng trưởng GDP tốc độ bình quân 5,5 - 6% cho 8 năm tới thì quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ vào khoảng 160 - 170 tỷ USD, tăng 3,5 lần so với quy mô hiện tại. Lúc đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam sẽ tương đương với Malaysia.
"Vì vậy, bình quân 8 năm tới, mỗi năm Việt Nam phải phát hành mới khoảng 370 nghìn tỷ trái phiếu, tương đương kết quả năm 2020 - năm đỉnh cao trước khi bùng nổ những vấn đề trên thị trường. Đây thực sự là mục tiêu khó khăn", ông Trần Lê Minh khẳng định.
Cam kết trả lãi suất trái phiếu "khủng" thường là những doanh nghiệp có dấu hiệu khủng hoảng
Đánh giá chung về thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam, GS.TS. Hoàng Văn Cường thẳng thắn cho rằng, hiện chất lượng trái phiếu đang có vấn đề. Trên thực tế, thị trường trái phiếu đang tập trung chủ yếu vào ngân hàng và bất động sản, là những lĩnh vực mang tính đầu cơ. Trái phiếu chưa hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế.
Xoay quanh vấn đề này, bà Thái Thị Quỳnh Như, Nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam (VIRES) nhìn nhận, yếu tố xếp hạng và minh bạch thông tin là rất quan trọng đối với thị trường trái phiếu, nhất là nhóm các doanh nghiệp bất động sản.
Cụ thể, theo bà Như, hiện nay, điều kiện để phát hành trái phiếu ra thị trường có hai loại bao gồm: Trái phiếu doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo và có tài sản đảm bảo. Trên thị trường, tài sản đảm bảo là cổ phiếu chiếm 38%, tài sản đảm bảo là bất động sản chiếm 30%, tài sản đảm bảo là dự án hình thành trong tương lai là 32%.
"Khi nhà đầu tư quyết định đầu tư, họ sẽ nhìn nhận vào độ tin cậy của trái phiếu đó. Nếu có rủi ro thu hồi vốn và dòng tiền đầu tư thì trái phiếu không có đảm bảo sẽ rất khó thu hút, bởi huy động vốn từ các cá nhân chiếm phần lớn so với doanh nghiệp. Với người dân, quyết định lấy tiền tiết kiệm mang đi đầu tư thì tài sản đảm bảo là rất quan trọng", bà Như nêu quan điểm.
Với tài sản đảm bảo là bất động sản, một số doanh nghiệp đã xảy ra hoặc có xu hướng manh nha không có khả năng chi trả khi có rủi ro. Thường thấy là một tập đoàn trước khi có biểu hiện nguy hiểm thì đều đưa ra lãi suất huy động trái phiếu cực kỳ cao, có thể lên tới 12%/năm hoặc hơn thế.
"Sẽ không có một doanh nghiệp nào kinh doanh đầu tư có được lãi suất "khủng" như vậy", chuyên gia VIRES nhấn mạnh và cho biết, để có thể lấy lại niềm tin của nhà đầu tư thì quan trọng nhất là làm sao vừa minh bạch thông tin, vừa đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy. Minh bạch nhưng không có độ đảm bảo về mặt pháp lý thì khó. Do đó, bà Như đề xuất các cơ quan quản lý cần giám sát kỹ tính pháp lý của các tài sản đảm bảo trước khi mang ra huy động vốn, đặc biệt là với tài sản đảm bảo bằng bất động sản.
Trước những bất cập còn tồn tại của thị trường trái phiếu, các chuyên gia tại hội thảo đều nhìn nhận, để có thể đạt mục tiêu đầy thách thức là tăng quy mô thị trường trái phiếu lên mức tối thiểu 25% GDP vào năm 2030 và phát triển một cách bền vững, thị trường trái phiếu Việt Nam cần đáp ứng được điều kiện cụ thể sau:
Thứ nhất, phải có thông tin mức độ rủi ro trái phiếu bán trên thị trường gồm mức độ rủi ro của tổ chức phát hành và khả năng trả nợ, trong đó phải có thông tin đầy đủ về rủi ro của tổ chức phát hành được một bên độc lập cung cấp.
Thứ hai là tham chiếu đơn giản phổ biến để nhà đầu tư dựa vào đó, biết trái phiếu đang được giao dịch mức giá thế nào, hay còn gọi là đường cong lãi suất trái phiếu doanh nghiệp. Điều này giúp các nhà đầu tư tránh tình trạng dò dẫm, không biết giá nào đúng để đặt lệnh giao dịch.
Thứ ba, cần thay đổi cơ cấu nhà đầu tư. Hiện, nhà đầu tư cá nhân trên thị trường Việt Nam đang đóng tỷ lệ sở hữu trái phiếu doanh nghiệp cao. Theo thống kê của VIS Rating, cuối năm ngoái nhà đầu tư cá nhân sở hữu 33% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành; ngược lại với các thị trường khác muốn phát triển trái phiếu doanh nghiệp thông qua phát hành kỳ hạn dài được nắm giữ bởi các nhà đầu tư là tổ chức./.